Chào mừng kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Petrovietnam (3/9/1975 - 3/9/2025):

Chuyện về những tấn dầu đầu tiên được khai thác tại Việt Nam (Kỳ 1)
0:00 /
Chọn Giọng
  • Nữ Miền Bắc
  • Nam Miền Bắc
  • Nữ Miền Nam
Nằm ngoài khơi vùng biển Việt Nam, mỏ Bạch Hổ đã đi vào các văn liệu dầu khí thế giới và trở thành một thành tựu có giá trị to lớn về khoa học và kinh tế, làm thay đổi rất lớn về đối tượng thăm dò dầu khí truyền thống. Thành công này còn khẳng định ý chí, trí tuệ và tinh thần vượt khó của các thế hệ người lao động dầu khí Việt Nam.

Trong những năm 80 của thế kỷ trước, khi đất nước đứng trước nhiều khó khăn, kinh tế phát triển chậm, mất cân đối lớn: thu không đủ chi, xuất không đủ nhập, sản xuất không đủ tiêu dùng. Khó khăn lớn nhất của nền kinh tế là thiếu lương thực và ngoại tệ. Trong giai đoạn đó, ngành dầu khí Việt Nam được mong đợi sẽ trở thành một trong những đầu tàu kinh tế mới của cả nước, mang lại nguồn ngoại tế lớn giúp ổn định nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn ấy.

Một quyết định sáng suốt và quan trọng của Bộ Chính trị, tạo bước ngoặt lịch sử cho sự phát triển ngành dầu khí Việt Nam là việc ký kết văn kiện “Hợp tác thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam CHXHCN Việt Nam” ngày 3/7/1980 và thành lập Liên doanh dầu khí Việt - Xô (nay là Liên doanh Vietsovpetro) ngày 19/6/1981.

Lễ ký kết Hiệp định hợp tác về thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam tại Điện Kremli tháng 7/1980.

Báo cáo “Đánh giá tiềm năng dầu khí phía Nam thềm lục địa Việt Nam và phương án khai thác sớm mỏ Bạch Hổ” được nhanh chóng thành lập, song song với xây dựng căn cứ logistics trên bờ và đào tạo bộ khung lãnh đạo Việt Nam trong Xí nghiệp Liên doanh.

Ngày 25/12/1983, tàu khoan Mirchink khoan giếng BH-5 gần vị trí giếng BH-IX của Mobil. Giếng dự kiến sẽ khoan hết lát cắt trầm tích Đệ Tam với chiều sâu thiết kế 3.500m dựa theo cấu trúc giếng của BH-1X. Hy vọng của cả nước đặt vào kết quả giếng khoan này. Nhưng sau khi khoan qua “tầng sản phẩm 23” ở chiều sâu khoảng 2.730m (hiện gọi tầng dầu Bạch Hổ) đến khoảng chiều sâu 3.001m thì lo ngại với chiều sâu quá lớn không được chống ống và nếu gặp phức tạp địa chất do tầng sét trương nở ở khoảng 2.600m tương tự như Mobil khoan giếng BH-1X, có thể gây sự cố cho giếng nên hai phía chấp nhận dừng ở chiều sâu 3.001m, không khoan đến chiều sâu thiết kế để đảm bảo an toàn cho giếng và tầng sản phẩm đã gặp ở giếng BH-1X.

Ngày 25/5/1984 thử vỉa, phát hiện dầu trong trầm tích Mioxen (tầng 23). Cả nước vui mừng vì lần đầu tiên Việt Nam tìm thấy dầu và dầu chắc chắn sẽ được khai thác trong tương lai gần. Không vui sao được khi đất nước đầy khó khăn nay phát hiện thấy dầu - một “cứu cánh” cho đất nước. Tin vui thật đấy nhưng cũng là nỗi lo cho những người làm địa chất dầu khí ở Vietsovpetro vì lưu lượng thử khoảng 20 tấn/ngày chỉ bằng 1/15 lưu lượng mà Mobil công bố.

Năm 1984-1985, các khối chân đế MSP 1,2 lần lượt được đưa ra biển và bắt đầu xây lắp dàn MSP-1 để khoan tại vị trí hiện được gọi là vòm trung tâm mỏ Bạch Hổ, nơi giếng BH-1X (Mobil) phát hiện dầu...

Giữa năm 1985, giếng khoan BH-1 bắt đầu được khoan từ dàn MSP-1. Giếng mang nhiệm vụ vừa khai thác vừa thăm dò. Mọi người rất kỳ vọng và mong đợi ở kết quả giếng BH-1. Mặc dù tầng 23 được xác định ở chiều sâu 2.730m nhưng vì có nhiệm vụ thăm dò nên giếng được thiết kế khoan hết lát cắt trầm tích đến chiều sâu thiết kế là 3.300m. Tại sao có chiều sâu 3.300m, lý do là theo tính toán mặt phản xạ tầng móng được xác định ở 3.150m, theo quy định của giếng thăm dò ở Liên Xô thì chiều sâu thiết kế phải cộng thêm 5%. Khi khoan đến chiều sâu khoảng 3.000m, giếng gặp phải tầng sét đen. Sau đó ở độ sâu 3.030m, bắt đầu có những thành phần các mảnh vỡ sắc cạnh của thạch anh và felspat bị kaolinit hóa mạnh. Lúc đó chưa có khái niệm về móng granit.

Vì có biểu hiện dầu nên vẫn tiếp tục khoan nhưng càng xuống sâu đến 3.118m càng bị mất dung dịch mạnh. Không có hóa chất xử lý, lúc đó đã có sáng kiến là dùng vỏ trấu trộn vào dung dịch khoan để chống mất dung dịch. Và trấu từ Bà Rịa được chở ra biển. Cố gắng khoan tiếp đến 3.178m... Để đảm bảo an toàn cho giếng và tầng 23, lãnh đạo Vietsovpetro quyết định dừng khoan và hoàn tất giếng để thử vỉa. Khi thử vỉa, vì dung dịch lẫn trấu bịt bộ thử vỉa nên kết quả ghi cho hình ảnh là vỉa “khô”, cộng với tài liệu carôta không đầy đủ, nên trên bờ kết luận là vỉa không có dòng dầu, yêu cầu kết thúc thử vỉa, mặc dù có ý kiến yêu cầu cho phép thử lại.

Tiếp tục thử tầng 24... Không có dòng! Trong đất liền điện cho ông Ngô Thường San, lúc đó đang ở giàn MSP-1, là phải nhanh chóng kết thúc thử vỉa để chuyển sang khai thác tầng 23, không để tàu chứa và xử lý dầu (UBN) Krưm phải chờ đợi. Sau khi đặt xong cầu ximăng ngăn cách, việc bắn vỉa và khai thác tầng 23 được thực hiện theo chương trình và dòng dầu đầu tiên được chuyển về UBN-1 (tàu Krưm) ngày 26/6/1986 trong niềm hân hoan chung của đất nước, của tập thể CBCNV Vietsovpetro, của những người tìm dầu nói chung.

Giàn MSP1 khai thác tấn dầu đầu tiên trên mỏ Bạch Hổ năm 1986.

Nhưng đối với lãnh đạo và các cán bộ Phòng Địa chất Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, niềm vui ấy không trọn vẹn. Sản lượng chỉ vẻn vẹn hơn 100 tấn/ngày, áp suất đầu giếng thấp, khoảng trên 20at, thể hiện năng lượng vỉa yếu, thấp hơn cả kết quả thử tầng 23 ở giếng BH-4 ở vòm bắc. Giếng thứ 2 (BH-28) khoan tiếp tục từ MSP-1 về hướng MSP-2 không cho dòng. Tầng 23 gần như bị mất hẳn... do đứt gãy hay do bị sét hóa? Nếu là do sét hóa thì đó là “bi kịch” đối với Vietsovpetro. Những giếng tiếp tục từ giàn MSP-1 không cho dòng tốt hơn giếng BH-1, khẳng định tầng 23 không triển vọng tốt như đã nghĩ, và đặc biệt bị vát mỏng do sét hóa về hướng MSP-2, nơi đã đặt chân đế giàn cố định và chuẩn bị xây lắp cấu trúc bên trên...

Giếng BH-1 sau thời gian khai thác, khoảng 4 tháng, từ áp suất đầu giếng khoảng 23at tụt xuống còn khoảng 10at, các giếng sau cũng không bổ sung lưu lượng tốt hơn. Sản lượng toàn MSP-1 chưa đến 100 tấn /ngày. Nhìn ngọn đuốc cháy leo lét ở faken MSP-1 mà không khỏi bùi ngùi...

Chính lúc mà mọi người dân Việt Nam đang vui mừng vì đất nước có dầu, thì cũng là lúc Xí nghiệp Liên doanh lâm vào tình trạng rất khó khăn bế tắc. Đó là sản lượng mỏ Bạch Hổ vừa mới khai thác đã có nguy cơ sụt giảm nhanh chóng... Xí nghiệp Liên doanh đã phải sống trong điều kiện hết sức khó khăn, tưởng chừng không thể vượt qua được. Tư tưởng hoang mang, bi quan, chán nản nảy sinh ở không ít người trong Xí nghiệp, kể cả những người có nhiệt huyết, tận tâm với ngành dầu khí. Không “hoang mang, chán nản” sao được khi mà mọi người dân Việt Nam tin tưởng rằng đất nước sẽ có nhiều dầu, khi mà đất nước chắt chiu để dành cho dầu khí những khoản đầu tư không nhỏ... bỗng chốc vấp phải một thực tế khắc nghiệt. Niềm hy vọng mong đợi vừa mới nhen lên đã bị tiêu tan.

Sự hoang mang cực độ bắt đầu lan dần từ Vietsovpetro ra Hà Nội, Tổng cục Dầu khí, lên cấp trên và đặc biệt ở Moskva. Phản ứng đầu tiên là sự chuyển giao Vietsovpetro từ Bộ Công nghiệp Khí sang Bộ Công nghiệp Dầu. Nhiều người trong đoàn chuyên viên Liên Xô trước đó, kể cả trưởng đoàn đều chuyển công tác.

Trong Tạp chí Kinh tế Dầu (số 1995 - 4, trang 45), các tác giả Arusanov P.A. và Sut F.E. viết: “Kết quả kiểm tra hời hợt của Hội đồng Bộ trưởng và từ kết luận không có cơ sở, 3 lãnh đạo của Bộ Công nghiệp Khí, trong đó có Ardjanov F.G. bị bãi miễn công tác. Ông Ardjanov đã báo cáo Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Likhachov E.K., khi Bí thư đến dự Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, thăm Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã đánh giá cao quá trình chinh phục tài nguyên dầu khí ở miền Nam Việt Nam và trao cho tập thể Xí nghiệp Liên doanh Huân chương Cờ đỏ. Theo ý kiến của Bí thư Likhachov E.K., quyết định không đúng đắn bị loại bỏ. Ông Ardjanov trở lại tiếp tục làm việc ở Xí nghiệp Liên doanh...”

Trong Vietsovpetro, sức ép từ nhiều chuyên gia Liên Xô muốn tìm hiểu ai là người “sáng tạo” ra chủ trương xây dựng 2 giàn MSP-1, 2, đầu tư cơ sở hạ tầng và tập trung phê phán gay gắt: “Bước đi vừa qua đã gây thiệt hại và không lối thoát... “vứt tiền qua cửa sổ”! Về phía Việt Nam, đã có người nói: Hình ảnh hai chân đế giàn MSP-2 như “Từ Hải chết đứng giữa biển!”. Tổng Giám đốc Ardjanov, con người rất tâm huyết với công việc, khi ốm được Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười điện hỏi thăm, cũng rất băn khoăn: Có nên dừng khai thác mỏ Bạch Hổ và mở rộng tìm kiếm sang các lô khác để có một chiến lược hoàn chỉnh cho Vietsovpetro, hay cứ tiếp tục chờ các giếng ở MSP-1 đang tắt dần? Quan điểm mở rộng diện tích hoạt động cho Vietsovpetro được Phó Tổng Giám đốc Thứ nhất Nguyễn Ngọc Cư ủng hộ và báo cáo xin ý kiến Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Kết quả, Xí nghiệp Liên doanh được mở rộng diện tích hoạt động ra các Lô 15, 17 và 05 (Đại Hùng).

Về Phía Việt Nam, tư tưởng bi quan cũng có tác động đến chủ trương của lãnh đạo, làm chậm việc đầu tư xây dựng cảng dầu khí, không tiếp tục xây dựng khu nhà ở 5 tầng, điều động một số cán bộ chủ chốt ra Hà Nội.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng rất quan tâm và trong chuyến công tác tại Vietsovpetro, Đại tướng yêu cầu Phó Tổng Giám đốc phụ trách địa chất Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro Ngô Thường San báo cáo thực trạng của mỏ Bạch Hổ.

Đoàn chuyên viên cao cấp của Bộ Công nghiệp Dầu (Liên Xô) do Thứ trưởng L.I. Philimonov dẫn đầu, sang kiểm tra công việc. Tham gia đoàn kiểm tra có Vụ trưởng Vụ Địa chất và Công nghệ mỏ. Phòng Địa chất Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro được giao nhiệm vụ chuẩn bị tất cả các tài liệu để đoàn kiểm tra. Lúc đó, Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro chờ đợi sẽ có một sự phê phán và kết luận không có lợi đối với mỏ Bạch Hổ, nhưng ngược lại, đoàn kiểm tra lại hướng dẫn cách tổ chức kiểm tra khai thác sao cho tốt hơn và cần phải nhanh chóng tổ chức bơm ép nước và chuẩn bị khai thác thứ cấp bằng bơm ly tâm.

Trước khi kết thúc việc kiểm tra, Thứ trưởng Philimonov lưu ý: “1/ Cần tập trung tổ chức, đẩy nhanh tiến độ xây lắp và khai thác khu vực phía Bắc mỏ. 2/ Tổ chức lại công tác kiểm tra khai thác. 3/ Sẽ cử các chuyên gia về công nghệ mỏ sang Vietsovpetro, xây dựng trong Xí nghiệp Liên doanh một viện nghiên cứu và thiết kế đủ mạnh để có thể thực hiện chức năng thiết kế mỏ và các công trình biển tại Việt Nam. 4/ Đặc biệt quan trọng là ngay lúc đó phải tổ chức bơm ép nước để duy trì áp suất vỉa. Việc bơm ép duy trì áp suất vỉa không kịp thời sẽ gây hậu quả khó khăn về sau, ảnh hưởng đến hệ số thu hồi...”

Tàu khoan Mikhail Mirchink nhận dòng dầu công nghiệp từ tầng trầm tích của mỏ Bạch Hổ.

Viện Nghiên cứu Khoa học và Thiết kế dầu khí biển (NIPI) ra đời và tiến hành làm lại thiết kế mỏ Bạch Hổ, tập trung chủ yếu ở phía Bắc mỏ với 5 giàn từ MSP-3 đến MSP-7 theo mạng 400 x 400 m cho tầng 23 và 600 x 600 m cho tầng Oligocen dưới.

Lúc đó, loay hoay mãi với các phương án khai thác nhưng Viện NIPI, Phó Viện trưởng Demuskin cũng không sao đưa ra được phương án nâng sản lượng 1 triệu tấn dầu/năm vào năm 1990, có lẽ đó là lượng dầu mà Liên Xô phải bảo đảm hàng năm cho Việt Nam. Năm 1983, trong một lần Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng thăm Vietsovpetro cũng đã nói lên điều mong ước này của đất nước. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với Vietsovpetro là phải đánh giá xong trữ lượng mỏ Bạch Hổ, đặc biệt khu vòm Bắc và hoàn tất phương án khai thác thử mỏ Bạch Hổ, điều chỉnh lên vòm Bắc. Phía Liên Xô không cung cấp kịp chân đế và các block kiến trúc bên trên. Tổng Giám đốc Arzanov chỉ đạo cho Chánh kỹ sư Puri làm việc với Viện Nghiên cứu của Ucraine tổ chức “cưa” chân đế MSP-2 và chuyển lên phía Bắc, tận dụng các block của MSP-2... công tác này phải được thực hiện trong năm 1988...

Để tiếp tục nhiệm vụ thăm dò, đánh giá trữ lượng, giếng Bạch Hổ-6 (BH-6) được khoan với nhiệm vụ khoanh ranh giới phát triển tầng Oligocen về phía Nam, đồng thời cũng để xác định ranh giới tầng 23 cần phải lấy mẫu lõi trong khoảng chiều sâu 2.800-3.700m với số lượng 9 hiệp, mỗi hiệp 18m (162m). Để biết đặc tính các tầng sản phẩm, tiến hành lấy mẫu khi có dấu hiệu dầu xuất hiện cho đến khi không còn thấy dầu xuất hiện nữa. Nhằm nghiên cứu đặc tính tầng móng và xác định ranh giới tầng trầm tích - móng, khoan lấy một hiệp 18m. Chiều sâu thiết kế giếng khoan 3.700m, khoan thẳng đứng. Khởi công khoan vào lúc 20 giờ ngày 16/8/1986. Kết thúc khoan vào lúc 16 giờ ngày 5/5/1987, chiều sâu cuối cùng là 3.533m.

Giếng khoan cho thấy tầng 23 bị sét hóa, ít triển vọng, tiếp tục khoan qua tầng sét đen gặp tập cát sét mỏng, sau đó là đến tầng móng phong hóa. Lúc này các nhà địa chất đã có thể phân biệt tầng móng qua tài liệu karota.

(còn tiếp)

 

PV