Tìm giải pháp ổn định nguồn than cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
Đảm bảo nguồn than ổn định, phương án vận chuyển và quản lý vận hành cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) trong giai đoạn sắp tới là một trong những thách thức không nhỏ của Công ty Nhập khẩu và Phân phối than Điện lực Dầu khí (PV Power Coal).

Tìm giải pháp hiệu quả

Nhu cầu than cho nhiệt điện nhằm đảm bảo an ninh năng lượng trong những năm tới đây đặt ra thách thức không nhỏ cho cả 3 trụ cột là EVN, PVN và TKV, nhất là các nhà máy nhiệt điện sử dụng nguồn than nhập khẩu. So với nhu cầu than cho điện của cả nước thì nhu cầu than cho điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chiếm cao nhất, khoảng 24% vào năm 2019 đến 2020, sau đó có xu hướng giảm trong giai đoạn 2020 - 2030 và chiếm khoảng 10% vào năm 2030.

Theo tính toán của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nhu cầu than cho các nhà máy nhiệt điện năm 2020 ở mức 16 triệu tấn, tăng lên mức khoảng 20 triệu tấn vào năm 2030. Trong số 5 nhà máy nhiệt điện than do Tập đoàn làm chủ đầu tư, có 2 nhà máy sử dụng nguồn than trong nước là Vũng Áng 1 và Thái Bình 2, 3 nhà máy còn lại là Nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1, Sông Hậu 1 và Quảng Trạch 1 sử dụng nguồn than nhập khẩu khoảng 10 triệu tấn, do đó sức ép để có nguồn than ổn định, tổ chức vận chuyển và trung chuyển các nguồn than này từ phía nước ngoài về Việt Nam là quá trình hết sức khó khăn.


Hội thảo Nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam


Kể từ khi được thành lập làm đầu mối cung ứng than, trong đó trọng tâm là than nhập khẩu cho các dự án nhiệt điện của Tập đoàn, tính đến nay, PV Power Coal (trực thuộc Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam) đã ký kết 6 hợp đồng khung về cung cấp than dài hạn (COFA - Coal Offtake Frame Agreement) với các đối tác lớn, nhiều kinh nghiệm và năng lực của nước ngoài (Australia và Indonesia), khối lượng than cam kết khoảng 15 triệu tấn/năm; đã nghiên cứu, hợp tác ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) với 1 số đối tác cung cấp nguồn than anthracite của Nga và Nam Phi, dự phòng trường hợp các nhà máy dùng than nội địa bị thiếu hụt nguồn than. Tuy nhiên, theo nhận định chung của PV Power Coal, việc nhập khẩu nguồn than hiện nay mới chỉ là bước đệm nhằm tích lũy kinh nghiệm, công tác đảm bảo cung ứng than lâu dài, ổn định và hiệu quả cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn còn rất nhiều việc phải làm.


Cần sự phối hợp chặt chẽ

Tại hội thảo nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tổ chức ngày 6/8 tại Hà Nội, vấn đề được các chuyên gia tập trung thảo luận nhiều nhất, đó là việc đảm bảo nguồn và cơ chế nhập khẩu than; phương án vận chuyển, chuyển tải than và chuỗi cung ứng, mô hình quản lý vận hành cho các nhà máy nhiệt điện của Tập đoàn trong giai đoạn sắp tới. Đây là vấn đề rất quan trọng, cấp bách, đòi hỏi cao về năng lực, kinh nghiệm, tài chính, kỹ thuật của các đơn vị được giao làm đầu mối (Tổng Công ty Đông Bắc, TKV, PV Power) để triển khai được các dự án đầu tư (đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển than, đầu tư mỏ than ở nước ngoài để lấy quyền mua than ổn định, đầu tư kho bãi có khả năng phối trộn than...) hay tiến hành ký kết hợp đồng mua bán than chi tiết với các đối tác trong nước và nước ngoài.

Theo đánh giá của Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng Đặng Huy Cường, việc đảm bảo nguồn than cho các nhà máy nhiệt điện của Việt Nam nói chung, cũng như các dự án của PVN đầu tư nói riêng rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước. Trong gian đoạn 2015 - 2030, nhập khẩu than phục vụ vận hành các nhà máy nhiệt điện có thể lên đến vài trăm triệu tấn, đấy là khối lượng than rất lớn cần nhập khẩu… Do vậy, các doanh nghiệp được Chính phủ giao nhập khẩu than cần có bước chuẩn bị ngay từ bây giờ để phục vụ nhập khẩu than cho các nhà máy điện trong những năm tới. Ngoài ra, để nhập khẩu than hiệu quả, ổn định, cùng với những hợp đồng dài hạn, ràng buộc pháp lý, thì việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng… cho việc nhập khẩu than là hết sức quan trọng.

Hiện nay, một số vấn đề PV Power Coal cần giải quyết đó là về cơ chế giá, cơ chế lựa chọn, ký kết hợp đồng thương mại mua bán than với các nhà cung cấp; thị trường than quốc tế biến động mạnh, trong khi sản xuất trong nước của TKV gặp nhiều khó khăn (thiên tai, vốn đầu tư mở rộng mỏ, độ sâu hầm lò khai thác…); tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng tiếp nhận than đến nhà máy (cảng, vận tải, chuyển tải…) tại các nhà máy như Long Phú 1 và Sông Hậu 1 chưa rõ ràng. 

Do đó, công ty mong muốn sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên nhằm nghiên cứu, xây dựng và đề xuất cơ chế chung về nhập khẩu than cho sản xuất điện, cơ chế giá mua bán điện với EVN của những nhà máy dùng than nhập khẩu, hợp tác hỗ trợ về nguồn than, hợp tác phối hợp cùng đàm phán giá than với các nhà cung cấp lớn để đảm bảo lợi ích chung và an ninh năng lượng quốc gia, hợp tác đầu tư mỏ than nước ngoài, đảm bảo nguồn cung ổn định, lâu dài.

Bên cạnh đó, công ty cũng kiến nghị với lãnh đạo Tập đoàn cho phép chủ động nghiên cứu, triển khai xây dựng phương án vận tải và chuyển tải than cho các nhà máy nhiệt điện như Long Phú 1 và Sông Hậu 1 để kịp tiến độ vận hành nhà máy; chủ động đàm phán hợp đồng mua bán than thương mại với đối tác nước ngoài trước 2 năm vận hành nhà máy, theo đúng thông lệ quốc tế. 

Minh Châu