
TS. Phan Ngọc Trung giới thiệu những công trình nghiên cứu của Viện với Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Nguyễn Quốc Thập
Xin ông cho biết những kết quả nổi bật mà Viện Dầu khí Việt Nam đã đạt được trong thời gian vừa qua?
Trước hết phải nói đến kết quả của Đề án 47, đó là dự án đánh giá tiềm năng dầu khí thềm lục địa vùng biển Việt Nam thuộc. Đây là đề án đánh giá về tiềm năng tài nguyên thiên nhiên dầu khí định hướng đến năm 2020. Kết quả của nghiên cứu này, là lần đầu tiên chúng ta có được đánh giá tổng thể tiềm năng dầu khí thềm lục địa Việt Nam. Dựa vào kết quả đề án này, ngành Dầu khí Việt Nam, các bộ, ngành đã xây dựng được chiến lược phát triển của ngành cũng như phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế nước ta. Cách đây vài năm ngành dầu khí đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh cho tập các nghiên cứu tìm kiếm phát hiện, khai thác hiệu quả các thân dầu trong các tầng đá móng granite trước Đệ Tam, Bể Cửu Long thềm lục địa Việt Nam. Trong số 49 tác giả của tập thể đạt giải này có 10 cán bộ khoa học đã và đang làm việc tại Viện.
Ngoài ra chúng tôi cũng nghiên cứu hỗ trợ tập đoàn như lựa chọn công nghệ cho các nhà máy lọc dầu phục vụ cho khâu sau. Chúng tôi cũng tư vấn nhiều công nghệ cho các nhà máy như Đạm Phú Mỹ, Cà Mau… Bên cạnh đó, là đơn vị nghiên cứu không chỉ về kỹ thuật, chúng tôi còn nghiên cứu về kinh tế và quản lý. Thời gian vừa qua chúng tôi đã hoàn thành một loạt các qui hoạch phát triển, trong đó đáng kể đó là qui hoạch phát triển công nghiệp dầu khí Việt Nam; qui hoạch phát triển công nghiệp khí Việt Nam; qui hoạch tàng trữ dầu khí; qui hoạch các nhà máy lọc dầu… Những qui hoạch này là tài liệu không thể thiếu được để xây dựng nền kinh tế chung của đất nước.
Được biết nhiều hoạt động nghiên cứu của Viện liên quan đến biển khơi, vậy đâu là những khó khăn mang tính đặc thù của một viện nghiên cứu chuyên ngành dầu khí, nhất là ở vùng khơi xa?
Chúng tôi là đơn vị nghiên cứu ứng dụng vì vậy để nghiên cứu được phải có số liệu. Nhưng với những vùng nước sâu xa bờ số liệu để triển khai rất khó khăn. Chẳng hạn các tàu địa chấn khi triển khai thu thập số liệu ngoài khơi xa thì bị các nước láng giềng quấy rối. Vì vậy, thực tế số liệu trong tay chúng tôi chưa đầy đủ. Đó là cái khó khăn của những nhà khoa học, đặc biệt là những nhà nghiên cứu địa chất, nghiên cứu đánh giá tiềm năng dầu khí. Tuy nhiên, chúng tôi cũng phải cố gắng dựa trên những thông tin hiếm hoi nhất để suy luận mở rộng ra những khu vực còn “trắng” về thông tin để đánh giá, từ đó tư vấn kịp thời cho lãnh đạo. Chúng ta là đất nước có vùng biển rất là rộng, tuy nhiên điều kiện biển VN chúng ta rất khắc nghiệt. Đã có nhiều nhà địa chất hay kỹ thuật nước ngoài khi đến làm việc ở VN nói rằng, điều kiện biển VN khắc nghiệt không kém so với điều kiện ở biển Bắc. Theo họ biển Bắc khó khăn chỉ là lạnh còn ở biển VN là dòng chảy, bản thân tồn tại hay dòng chảy khác nhau, thay đổi và dòng chảy ngầm rất mạnh.
Ông có thể cho biết thêm về những định hướng đổi mới hoạt động khoa học của Viện trong thời gian tới?
Viện Dầu khí tự hào là một trong những đơn vị đứng đầu khu vực về tính động bộ. Chúng tôi nghiên cứu chuỗi từ tìm kiếm, thăm dò, chế biến, vận chuyển và an toàn môi trường kể cả kinh tế quản lý. Định hướng trong thời gian sắp tới, chúng tôi sẽ căn bản chuyển Viện Dầu khí hiện tại thành Học viện dầu khí. Chúng tôi thấy rằng, việc nghiên cứu khoa học cần phối hợp với đào tạo. Như vậy sẽ đáp ứng được hai mặt của vấn đề, thứ nhất vấn đề nghiên cứu mới nhất trong khoa học được nhanh chóng chuyển đến cho các sinh viên, nghiên cứu sinh được chúng tôi đào tạo. Thứ hai, chúng tôi cũng sử dụng trình độ lắm bắt nhanh của các sinh viên, nghiên cứu sinh khi họ nghiên cứu vấn đề để họ giải quyết vấn đề thực tế mà chúng tôi cần. Chúng tôi đang cải tiến để sẽ dần dần tiến tới xin phép nhà nước thành lập Học viện Dầu khí Việt Nam để làm sao gắn kết được 3 chân đế. Đó là nghiên cứu khoa học- ứng dụng chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh đào tạo. Không chỉ đào nâng cao mà đào tạo hàn lâm từ sinh viên bậc đại học đến cán bộ sau đại học.
TS. Phan Ngọc Trung: Đối tượng đá móng chứa dầu mang tính đặc thù mà hiện tại trên thế giới mới chỉ có Việt Nam đưa vào khai thác thương mại. Đây được đánh giá là sự đóng góp to lớn của các nhà khoa học cho ngành dầu khí và cho đất nước. Điều đáng nói là các nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở nước ta mà rất nhiều các nhà khoa học địa chất và các nhà công nghệ trên thế giới cũng quan tâm và họ cũng tham gia nghiên cứu cùng các nhà nghiên cứu địa chất, công nghệ Việt Nam. Tiếp sau đây, Viện Dầu khí Việt Nam cũng sẽ đi đầu trong việc triển khai nghiên cứu tiếp; phải lượng hoá trong công tác nghiên cứu để đánh giá được cụ thể hơn nữa để chúng ta sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng dầu khí trong đá móng nơi mà rất đặc thù Việt Nam.
|
Hải Nam
(Theo Công Thương)