Thế chân kiềng vững chắc ở BSR
Năm qua, bằng nhiều giải pháp kinh tế, kỹ thuật và khoa học công nghệ, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) đã đứng vững trước đà suy giảm nghiêm trọng của giá dầu thô thế giới. Công ty đã vượt kế hoạch ở các chỉ tiêu sản lượng, nộp ngân sách, lợi nhuận và về đích sớm 50 ngày. Có thể nói, thế “chân kiềng” đang giúp Công ty BSR củng cố sức cạnh tranh - tiếp tục là doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực hạ nguồn của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).

Nỗ lực vượt bậc

Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất đã vận hành liên tục, ổn định ở công suất trung bình 102%. Nhà máy đạt sản lượng sản xuất 6.777,3 nghìn tấn, vượt 16% - tương ứng 916,9 nghìn tấn và sản lượng tiêu thụ đạt khoảng 6.769,81 nghìn tấn, vượt 16% - tương ứng 909,4 nghìn tấn so với kế hoạch năm. Gần như chi phí năng lượng, khấu hao, chi phí vận hành vẫn giữ nguyên; trong khi sản lượng tăng thêm gần 1 triệu tấn so với kế hoạch - một điều hiếm thấy ở các NMLD trên thế giới. Đây là một trong những nguyên nhân chính góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.


Phân xưởng Polypropylene của NMLD Dung Quất

Khó khăn đầu tiên BSR vấp phải chính là giá dầu thô và giá sản phẩm giảm làm cho dầu thô và sản phẩm tồn kho BSR có giá cao hơn thị trường. Đồng thời giá giảm cũng ảnh hưởng đáng kể đến tình hình tiêu thụ của BSR, một số khách hàng đã đề nghị giảm, giãn nhận hàng tới kỳ (term), từ chối mua bổ sung. Bên cạnh đó, tình hình tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn vì ảnh hưởng của chênh lệch thuế nhập khẩu ưu đãi và thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của sản phẩm có nguồn gốc từ các nước ASEAN. Tuy nhiên, ngược lại ở các thời điểm giá tăng thì lại thuận lợi cho BSR. Công ty cũng đã nỗ lực linh hoạt về chính sách kinh doanh và nhạy bén nắm bắt thị trường nên về tổng thể khoản chênh giá bán sản phẩm so với giá dầu thô là thuận lợi so với dự kiến kế hoạch và cũng góp phần tích cực trong kết quả sản xuất kinh doanh.

Đối với sản phẩm xăng dầu, thực hiện chỉ đạo của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, BSR đã triển khai dự trữ sản phẩm xăng dầu để tận dụng thời cơ trước xu hướng biến động của thị trường. BSR được Tập đoàn cho phép chủ động thời điểm xuất bán sản phẩm dự trữ. Trên cơ sở dự báo của các tổ chức và nhận định thị trường của BSR, công ty đã xuất bán tối đa sản phẩm dự trữ trong tháng 5-2015 theo hình thức chào bán bổ sung (spot). Lượng hàng dự trữ còn lại đã được tiếp tục chào bán spot trong tháng 6 và 7-2015. Với phương án dự trữ và xuất bán trên, sau khi trừ tất cả các chi phí đầu vào (bao gồm cả chi phí tài chính) thì hiệu quả của việc xuất bán xăng dầu dự trữ là hơn 131 tỉ đồng. Đây là thành công bước đầu và là tiền đề quan trọng để BSR tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, vận dụng triển khai khi thị trường có những biến động liên tục.

Ngoài ra, trong năm 2015, đánh dấu việc BSR tăng cường xuất bán các chủng loại sản phẩm có giá trị cao như: Xăng RON 95 chiếm khoảng 50% tổng lượng xăng và dầu DO 0,05% chiếm hơn 75% tổng lượng DO xuất bán của nhà máy.

Tình hình tiêu thụ sản phẩm PP năm 2015 gặp nhiều khó khăn, giá sản phẩm hạt nhựa PP liên tục giảm, do nhu cầu tiêu thụ tại thị trường trong nước không cao. BSR đã nỗ lực để yêu cầu các khách hàng tiêu thụ sản phẩm và nhận hàng theo đúng kế hoạch để đảm bảo an toàn tồn kho. Ước tính tổng khối lượng PP năm 2015 BSR xuất bán khoảng 166.800 tấn. Tuy nhiên, lượng hàng PP nhập khẩu có chứng nhận xuất xứ theo form D/E với thuế suất 0% từ các nước khu vực ASEAN và Trung Quốc vào Việt Nam với giá thấp và thời hạn thanh toán dài đã gây sức ép rất lớn lên thị trường nội địa, đẩy hàng tồn kho của các nhà phân phối sản phẩm PP trong nước lên rất cao do không tiêu thụ được.

Giải pháp khoa học kỹ thuật

Bên cạnh các giải pháp kinh tế, BSR cũng áp dụng hàng loạt giải pháp về vận hành, kỹ thuật, bảo dưỡng nhằm giúp NMLD Dung Quất hoạt động ổn định.

BSR hoàn thiện và áp dụng các hệ thống quản lý nhằm tăng cường hơn nữa công tác vận hành an toàn NMLD như: hoàn thành hơn 327 quy trình bổ sung nhằm đảm bảo tính an toàn, chủ động cao nhất trong công tác vận hành sản xuất của nhà máy; kiểm soát rò rỉ; tối ưu hóa vận hành các lò gia nhiệt, nồi hơi, hóa phẩm xúc tác, giảm thiểu tổn thất trong quá trình nhập dầu thô, tồn chứa và xuất bán sản phẩm, tiết giảm chi phí sản xuất, tối ưu hóa lượng nước làm mát, đèn chiếu sáng tại các khu vực. Tối ưu hóa hiệu quả thu hồi nhiệt của các vòng tuần hoàn thân tháp (Pumparound) cho phân xưởng CDU và RFCC…

Các vấn đề kỹ thuật của thiết bị đều được phát hiện và xử lý kịp thời, bao gồm: Tồn tại kỹ thuật tại phân xưởng RFCC; tại Tháp hấp thụ (T-1555) và amine bị cuốn theo sản phẩm fuel gas đã được kiểm soát với tần suất chỉ còn 1 lần/ngày (trước đây 10-12 lần/ngày); các điểm quá nhiệt - hot spot vẫn được kiểm soát và theo dõi chặt chẽ.

Công tác bảo dưỡng thường xuyên được tổ chức và thực hiện với nhiều cải tiến và tối ưu, đảm bảo tốt chất lượng và mục tiêu, giữ vững ổn định và an toàn trong vận hành nhà máy. Trong năm 2015, BSR đã lập kế hoạch và tổ chức thực hiện 41.997 lượt bảo dưỡng phòng ngừa (PM) và 9.500 lượt sửa chữa (CM) cho khoảng 67.000 thiết bị. Bắt đầu từ năm 2015, các dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa đã dần dần do nhân sự của BSR thực hiện như: Cắt giảm dịch vụ thuê chuyên gia vận hành và bảo dưỡng (O&M) giám sát việc đại tu bơm, máy nén; cắt giảm các dịch vụ cơ khí như Furmanite, giám sát rò rỉ…

Công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) như phát huy sáng kiến, tối ưu hóa sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh; trong đó tập trung vào thực hiện các giải pháp tiết giảm chi phí vận hành, bảo dưỡng, tối ưu hóa năng lượng và tìm kiếm cơ hội nâng cao lợi nhuận chế biến của nhà máy.

BSR đã xét công nhận 40 sáng kiến cấp cơ sở; đề xuất 3 sáng kiến cấp Tập đoàn; 5 giải pháp đã đạt giải trong Hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi; 1 công trình khoa học được xét tặng giải thưởng Khoa học công nghệ Dầu khí và triển khai 6 đề tài/nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Trong đó, 3 đề tài BSR tự thực hiện và 3 đề tài phối hợp với các đơn vị, bao gồm: Trung tâm hợp tác dầu mỏ Nhật Bản (JCCP/JXNRI), Viện Dầu khí (VPI), Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Số tiền làm lợi từ các sáng kiến trong năm 2105 khoảng 569,3 tỉ đồng.

BSR cũng đã hợp tác với các nhà thầu có năng lực kinh nghiệm khảo sát như Shell, Solomon đề xuất các cơ hội tối ưu hóa năng lượng cho BSR. Căn cứ trên độ phức tạp và khả năng thực hiện thì có 27 giải pháp (gồm 17 giải pháp vận hành và 10 giải pháp đầu tư thiết bị) được thực hiện như giảm tiêu thụ hơi ở máy nén MAB, đuốc đốt, tháp tái sinh amime… và các giải pháp này đã giúp Nhà máy tiết kiệm được khoảng 8969 tấn hơi HP, 12787 tấn hơi MP và 4640 tấn hơi LP - tương đương tổng lượng 1793 tấn dầu FO quy đổi.

Lâu dài

Để BSR phát triển bền vững, tạo thế “chân kiềng” cho những năm tiếp theo, công ty tiếp tục công tác thử nghiệm lựa chọn loại dầu thô phối trộn tiềm năng chiến lược, hoàn thiện danh sách dầu thô cơ bản thay thế dầu thô Bạch Hổ và danh sách dầu thô phối trộn phù hợp với cấu hình mới của nhà máy.

Được biết, dầu thô chế biến trong năm 2015 chủ yếu là dầu thô trong nước, chiếm khoảng 97,7% (gồm dầu Bạch Hổ, Đại Hùng, Tê Giác Trắng, Chim Sáo, Thăng Long và Sư Tử Đen) và 2,3% dầu nhập khẩu (bao gồm Champion 1,1%, ESPO 1,2%).

Đối với dầu thô Murban, BSR đã phối hợp cùng PV Oil làm việc với các đối tác lớn sở hữu loại dầu này là ADNOC, BP và Shell về khả năng cung cấp cũng như xúc tiến việc đàm phán ký kết biên bản ghi nhớ (MOU) cung cấp dầu Murban cho NMLD Dung Quất giai đoạn sau khi nâng cấp, mở rộng Nhà máy. Đối với dầu thô ESPO, BSR đã tiếp xúc, tiến tới đàm phán và ký kết các thỏa thuận liên quan với các nhà cung cấp dầu ESPO là Rosneft và Gazpromneft.

Trong khi chờ Chính phủ xem xét cơ chế, chính sách để điều chỉnh thuế nhập khẩu đối với DO, PP và LPG; BSR sẽ chủ động tính toán, cân nhắc áp dụng một số giải pháp thương mại để sản phẩm của nhà máy có thể cạnh tranh được với hàng nhập khẩu từ các nước theo FTA. Đó là chính sách giá bán hàng phù hợp. Đây là biện pháp chính để tiêu thụ sản phẩm, vì mức chênh lệch thuế đối với các sản phẩm khá lớn (10% đối với DO, Jet A1, 5% đối với LPG, 3% đối với PP trong năm 2016 - theo mức thuế nhập khẩu hiện tại). Bên cạnh việc sử dụng chính sách giá hàng bán phù hợp, BSR tiếp tục áp dụng biện pháp giãn thời gian thanh toán để bán hàng.

Được biết, năm 2015, BSR đạt tỷ suất lợi nhuận sau thuế/vốn đầu tư của chủ sở hữu rất cao, đạt 20,81% so với kế hoạch năm 2015 là 10,85%. Ngoài ra, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu khoảng 6,23%, cao hơn so với kế hoạch năm 2015 là 3,16%. Để có được những thành công đó, BSR đã áp dụng nhiều giải pháp kinh tế, kỹ thuật, khoa học công nghệ. Đây là tín hiệu sáng để các nhà đầu tư quan tâm hơn nữa đến tiến trình cổ phần hóa Công ty BSR đang được triển khai đúng kế hoạch.

Đức Chính