QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ
Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp là một trong những vấn đề sống còn của doanh nghiệp, của các nhà lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh của sự hội nhập vào nền kinh tế thị trường thế giới. Trên thế giới và đặc biệt là trong ngành Công nghiệp Dầu khí thì công tác quản trị rủi ro được coi trọng vào hàng bậc nhất, đặc biệt là các loại rủi ro thường gặp như chính trị, an toàn môi trường, biến động về giá, con người, công nghệ… mà dẫn đến sự khó khăn của doanh nghiệp, thậm chí là phá sản ví dụ điển hình là sự cố tràn dầu tại Vịnh Mexico của Công ty Dầu khí BP…

Trong các năm qua khủng khoảng kinh tế trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã dẫn đến một loạt các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí là phá sản. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì năm 2013 có trên 55.000 doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động. Dầu khí cũng không phải ngoại lệ, trong những năm gần đây bên cạnh những doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam làm ăn hiệu quả, một số các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến các khó khăn cho doanh nghiệp như mất khả năng cân đối tài chính, làm giảm vốn chủ sở hữu… Câu hỏi đặt ra đối với các nhà quản lý, kinh tế là việc làm ăn thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp là do nguyên nhân chính ở đâu? Khách quan hay chủ quan? Việc thua lỗ này có được dự báo trước hay không? Và các giải pháp phòng chống có được áp dụng để tránh các rủi ro này không? Ngoài ra còn kinh nghiệm của các doanh nghiệp kinh doanh thành công trong giai đoạn khủng khoảng và khó khăn này như thế nào? Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề chính trong quản trị rủi ro của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí gồm các nội dung cơ bản sau:

1)     Tầm quan trọng của Quản trị rủi ro trong quản trị doanh nghiệp hay Quản trị rủi ro gắn liền với quản trị doanh nghiệp;

2)     Các rủi ro trọng yếu trong ngành Công nghiệp Dầu khí.

3)     Thực trạng quản trị rủi ro trong Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

4)     Các giải pháp Quản trị rủi ro trong các hoạt động Dầu khí

1) Quản trị rủi ro gắn liền với quản trị doanh nghiệp:

“Hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng cũng nhiều cơ hội để trụ vững và phát triển cho người biết nắm bắt”theoStephen Wagner – Chuyên gia hàng đầu về Quản trị rủi ro. Hay nói cách khác rủi ro là một sản phẩm phụ tất yếu của mọi hoạt động. Các tổ chức không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro. Rủi ro của doanh nghiệp là thiện hại do những nhân tố khó kiểm soát, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp (mục tiêu lợi nhuận, thị phần, thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, an sinh xã hội…). Quản trị rủi ro là tổng thể những giải pháp mà bộ máy quản trị doanh nghiệp cần phải tiến hành nhằm phát hiện, phòng ngừa hoặc làm giảm các thiệt hại khi có rủi ro.

Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 và cấu trúc quản trị doanh nghiệp thì quản trị rủi ro là một phần không thể tách rời quản trị doanh nghiệp. Nó thể hiện ở ngay 3 tầng kiểm soát nội bộ các rủi ro: 1) Tổng giám đốc là Người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày (executive), có trách nhiệm kinh doanh an toàn hiệu quả tránh các rủi ro đổ vỡ theo các quy định của Hội đồng Quản trị và pháp luật; 2) Hội đồng Quản trị có trách nhiệm giám sát hoạt động của Tổng giám đốc để doanh nghiệp đạt được các mục tiêu đề ra; 3) Kiểm soát do Chủ sở hữu cử/bổ nhiệm hoạt động độc lập, chịu trách nhiệm trước Chủ sở hữu giám sát toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp, HĐQT, TGĐ. Đó là 3 tầng lớp kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp, ngoài ra còn có kiểm toán độc lập, thanh tra, kiểm toán nhà nước nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước.

Nói tóm lại rủi ro gắn liền với lợi ích. Trong kinh doanh thường thì rủi ro cao sẽ mang lại lợi ích cao, tuy nhiên trong một số trường hợp rủi ro cao sẽ không mang lại lợi ích thậm trí còn thua lỗ, phá sản. Quản trị rủi ro không chỉ bảo vệ tài sản mà còn giúp gia tăng giá trị và đem lại cơ hội cho doanh nghiệp phát triển.

Việc xác định các rủi ro, đo lường, định lượng mỗi rủi ro một cách chính xác và toàn diện trên cơ sở liên tục điều chỉnh và phản ánh những thay đổi đó trong các quyết định quản lý là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các nhà quản lý các cấp: Các doanh nghiệp không thể loại trừ hoàn toàn các rủi ro mà cần phải tìm hiểu các rủi ro mà họ phải đối mặt, sau đó cần xác định khả năng tự quản lý rủi ro trong nội bộ doanh nghiệp và thiết lập các giải pháp phòng ngừa tối ưu để hạn chế các rủi ro cao hơn, ngăn ngừa và giảm thiểu các tổn thất nghiêm trọng, nâng cao hiệu quả hoạt động và tiết kiệm chi phí.

Việc xác định rủi ro phải phân tích dự đoán các nhân tố từ trong doanh nghiệp (internal) hay các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp (external). Cụ thể các nhân tố bên ngoài như môi trường kinh doanh, các quy định của pháp luật về thuế, phí, hải quan, lao động…; các dự báo về tốc độ tăng trưởng phát triển của ngành, nhu cầu, thu nhập bình quân đầu người, GDP, …; yếu tố chính trị; sự biến động về giá, tỷ giá…. Các nhân tố bên trong như các quy trình, quy định nội bộ trong doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp…

Từ việc phân tích nhân tố phát sinh rủi ro, rủi ro của doanh nghiệp còn có thể được chia làm 3 loại: 1) Rủi ro kinh doanh (từ môi trường bên ngoài, các đối tác…); 2) Rủi ro hoạt động (từ các hoạt động quy trình nội bộ, đội ngũ CBCNV); và 3) Rủi ro tuân thủ (từ việc tuân thủ pháp luật, các quy định). Vậy trong ngành Dầu khí, các rủi ro nào thường được quan tâm?

2) Các rủi ro trọng yếu trong ngành công nghiệp Dầu khí.

Rủi ro chính trị:Một trong những đặc thù của ngành Dầu khí là đòi hỏi vốn đầu tư lớn, rủi ro cao và chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố chính trị… các Công ty Dầu khí lớn thường là các công ty dầu khí quốc gia hoặc đa quốc gia, được sở hữu toàn phần hoặc một phần của Nhà nước. Vì vậy các chiến lược, các chính sách đặc biệt là chính sách về năng lượng, kinh tế, ngoại giao của các Quốc gia đều có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành dầu khí. Sự bất ổn trong khu vực có dầu cũng là một yếu tố chính trị cần tính đến, chúng ta khó có thể thực hiện một dự án dầu khí tại Iran khi có sự cấm vận, khó khăn trong việc thực hiện dự án như chuyển tiền góp vốn, tìm kiếm các nhà thầu cung cấp thiết bị, dịch vụ… Đối với ngành Dầu khí Việt Nam: Trong thời gian qua, việc mở rộng tìm kiếm thăm dò khai thác ra vùng biển nước sâu xa bờ thì một mặt rất tốn kém, rủi ro và hơn nữa đang bị tranh chấp mạnh từ phía Trung Quốc điển hình là sự kiện Tàu thu nổ địa chất Bình Minh 02 của ta mặc dù đã được các Tàu bảo vệ nhưng cũng bị Tàu Trung Quốc cắt cáp… 

Rủi ro về trữ lượng:Nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ dầu mỏ ngày càng tăng đặc biệt là các nước đang phát triển, không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong dài hạn do sự bùng nổ dân số, các ngành công nghiệp tiếp tục phát triển, đặc biệt là sự bùng nổ của ngành giao thông do nhu cầu đi lại ngày càng nhiều… Ngoài ra, đây còn là nguồn năng lượng chưa thể thay thế ngay bằng nguồn năng lượng khác. Theo Viện phân tích An ninh Năng lượng toàn cầu, nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu sẽ tăng khoảng 60% trong năm 2020 so với hiện nay. Theo Tổ chức quản trị thông tin năng lượng (Business Monitori Intemational), nhu cầu tiêu thụ dầu lỏng của thế giới tăng lên khoảng 107 triệu thùng/ngày trong năm 2030, ở Việt Nam mức tiêu thụ dầu sẽ tăng và đạt mức 460.000 thùng/ngày vào năm 2014. Song song với việc dự báo nhu cầu sử dụng, việc đánh giá khả năng cung cấp, dự báo trữ lượng, chứng minh thẩm định trữ lượng, tỷ lệ khai thác thực tế so với các con số đánh giá trữ lượng trong giai đoạn tìm kiếm, thăm dò cũng chỉ là các dự báo trong tương lai và có nhiều rủi ro phía trước. Vì vậy, khi thực hiện một dự án đầu tư về dầu khí, tỷ suất sinh lời (IRR, NPV) của dự án thường phải cao hơn so với các ngành khác (thường khoảng 35%, ít nhất là trên 30%), để có thể tránh được hoặc bù đắp được các rủi ro vì đầu tư lớn, rủi ro lớn nên lợi nhuận phải lớn để bù đắp cho những rủi ro như giếng khô, trữ lượng thực tế không khả quan, tỷ lệ khai thác thấp, chi phí khai thác cao hơn dự kiến do địa hình dưới biển, dưới lòng đất mà chưa thể biết và lường hết được… Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và để gia tăng trữ lượng, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam không những tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí từ trong lòng thềm lục địa mà đã triển khai các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác ra nước ngoài. Hiện tại PVN/PVEP đã tham gia đầu tư vào 13 dự án thăm dò khai thác dầu khí ở các nước Cuba, Indonesia, Iran, Tuynidi, Myanmar, Lào, Campuchia, Công gô, và ở Madagasca. Ngoài ra còn có các dự án phát triển khai thác ở các nước Nga, Venezuela, Algeria, và Malaysia. Việc đầu tư ra nước ngoài cũng có nhiều thách thức rất lớn như cạnh tranh gay gắt, các chính sách, luật phát, quy định của Quốc tế và các nước sở tại cần phải nghiên cứu kỹ và có kinh nghiệm trong khi ta mới hội nhập…

Rủi ro bởi nhân tố thị trường: Dầu mỏ là sản phẩm mà giá được quyết định theo giá thế giới, vì vậy mỗi biến động của giá dầu mỏ trên thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty dầu khí, ảnh hưởng về doanh thu, ảnh hưởng về việc đầu tư các dự án… Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, giá dầu thô giảm mạnh về dưới 40 USD/ thùng trong năm 2009. Kinh tế phục hồi là cơ sở để giá dầu thô liên tiếp tăng và lấy lại mốc hơn 110 USD/thùng trong 2 năm sau đó. Từ đó đến nay, giá dầu biến động khá phức tạp do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công Châu Âu và các cuộc chiến liên quan đến dầu mỏ. Việc dự báo giá dầu trong các năm tới cùng với sự phục hồi kinh tế thế giới cũng là một thách thức và là rủi ro khó lường hết được do sự biến động rất lớn. Ngoài ra thì yếu tố về tỷ giá cũng rất quan trọng, do sự trao đổi thương mại bằng các đồng tiền khác nhau nên tỷ giá giữa các đồng tiền cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty dầu khí ví dụ như Nhà máy Lọc dầu Dung Quất phải mua nguyên liệu đầu vào (input) là dầu thô bằng tiền USD trong khi đầu ra (output) xăng dầu lại bán bằng tiền Việt Nam đồng và bị quy định bởi Nhà nước, nên mỗi sự biến động của tỷ giá đều ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, hay việc đầu tư ra nước ngoài của Tập đoàn vào Dự án Junin 2 tại Venezuella, tỷ giá đồng Bolivar.của Venezuela so với đồng USD được Chính phủ Venezuela quy định rất thấp so với tỷ giá trao đổi trên thị trường ngoài (thấp hơn đến nhiều lần), dẫn đến ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của Dự án.... Ở Việt Nam, do đòi hỏi vốn lớn trong các dự án dầu khí nên rủi ro về huy động vốn cũng rất lớn, thường một dự án dầu khí thì phải Ngân hàng Quốc tế lớn hoặc nhiều ngân hàng thương mại trong nước hợp vốn cho vay tài trợ mới thực hiện được. Ngoài ra thì rủi ro về chi phí khai thác biến động theo giá dầu, lãi vay, bảo hiểm… cũng phải tính đến.

Rủi ro bới nhân tố con người: Ngành Dầu khí Việt Nam còn khá non trẻ và chỉ mới bắt đầu được quan tâm đúng mức của Chính phủ trong những năm gần đây. Năm 1981 bắt đầu khai thác mỏ khí đầu tiên ở Tiền Hải – Thái Bình với sự giúp đỡ của Liên Xô cũ và Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Việt-Xô (Vietsovpetro) được thành lập. Đến ngày 26/6/1986, Việt Nam đã có tên trong danh sách các nước khai thác và xuất khẩu dầu thô thế giới. Đến cuối năm 2013, PVN có khoảng trên 50.000 lao động gồm 8,16% lao động quản lý, 41,99% lao động chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ, 49,85% lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh. Thực tế làm việc cho thấy, đội ngũ nhân lực vận hành và bảo dưỡng ngày càng trưởng thành, đã dần thạo nghề và tiến tới thay thế hoàn toàn chuyên gia nước ngoài như ở nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Liên doanh Việt – Nga (Vietsovpetro)… Tuy nhiên, so với ngành Dầu khí ở các nước phát triển thường có tỷ lệ người lao động qua đào tạo đạt 100%, số lượng lao động trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học đạt từ 72% trở lên thì ở Việt Nam con số này còn tương đối thấp, chỉ mới đạt 53%. Việc cạnh tranh trên thị trường lao động chất lượng cao trong ngành dầu khí cũng diễn ra rất gay gắt.

Ngoài những nhân tố trên, ngành dầu khí còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác rất quan trọng như ảnh hưởng của môi trường, các yêu cầu về bảo vệ môi trường, quy định về an ninh, an toàn trong ngành của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động dầu khí như chính sách về phát thải nhà kính CO2… Cũng như các ngành khác, rủi ro về công nghệ trong ngành dầu khí cũng có một vai trò rất quan trọng như cách mạng về shale oil/gas (shale gas revolution) ở Mỹ, có thể dẫn đến giá gas trên thị trường giảm mạnh… Công nghệ tìm kiếm thăm dò khai thác, vận chuyển, lọc dầu và sử dụng khí của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể về nhiều mặt sau khi hợp tác và học hỏi ở các nước có ngành công nghiệp dầu khí phát triển. Về thăm dò, PVN đã có thể tự tiến hành thăm dò một phần ở trong nước và đã vươn ra các nước khác trên thế giới, đã có và tự đóng được giàn khoan. Về vận chuyển: PVN/PVTrans đã có những tàu chở dầu thô loại lớn có thể tự vận chuyển dầu để xuất khẩu. Về lọc dầu, Nhà máy Lọc dầu đầu tiên Dung Quất với công suất 6,5 triệu tấn dầu sản phẩm/năm (tương đương 148.000 thùng/ngày) và đã có kế hoạch mở rộng nâng cấp công suất lên 9,5 triệu tấn/ngày. Ngoài ra còn một số nhà máy lọc dầu khác sẽ đi vào hoạt động như Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, Long Sơn, ... Về sử dụng khí: Sau khoảng thời gian dài bỏ phí nguồn khí đồng hành do công nghệ lạc hậu, hiện nay Việt Nam đã có thể sử dụng khí để sản xuất điện, phân bón,và một số sản phẩm khác, tận dụng nguồn khí đồng hành đem lại tỷ suất sinh lời cao.  

Từ việc phân tích kỹ những nhân tố trên, tuỳ thuộc vào từng hoàn cảnh thực tế, từng giai đoạn để các nhà quản lý đặt ra các ưu tiên giải quyết các vấn đề và là căn cứ để ra các quyết định quản lý, việc đánh giá rủi ro có tầm quan trọng sống còn của doanh nghiệp. Các nhà quản lý kinh tế phải đánh giá các rủi ro chính, trọng yếu, phân tích các lợi thế cũng như hạn chế của doanh nghiệp so với đối thủ (vị thế của doanh nghiệp). Hay nói cách khác, các rủi ro này nếu xẩy ra có thể sẽ dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp, hoặc ảnh hưởng trọng yếu đến phần lớn doanh thu của doanh nghiệp. Qua các công cụ tài chính, các CEO cũng phải phân tích được điểm hòa vốn hay điểm mà doanh nghiệp có thể chấp nhận được, không bị xẩy ra làm ăn thua lỗ; cùng với việc phân tích và dự báo thị trường và tình hình thực tế để có được các giải pháp linh hoạt và tối ưu cho việc giảm thiểu các rủi ro cũng như chuyển giao các rủi ro cho bên thứ 3... Tuy nhiên cũng xin lưu ý rằng việc chuyển giao rủi ro cũng đồng nghĩa với việc chuyển lợi ích cho bên thứ 3.

Đồng thời với việc xác định các rủi ro chính/trọng yếu, các nhà quản lý doanh nghiệp cũng phải đánh giá khả năng chấp nhận rủi ro của các doanh nghiệp.Hay được hiểu theo mức độ rủi ro nào là chấp nhận được và doanh nghiệp có thể chịu đựng được, chi phí để tránh những rủi ro đó. Ví dụ như nếu chi phí thực hiện một dự án tăng bất khả kháng 10%, doanh thu sụt giảm 10% thì doanh nghiệp thua lỗ hay vẫn có lãi, thua lỗ thì doanh nghiệp có thể chấp nhận được bao lâu.

Sau cùng là việc quyết định chọn giải pháp tối ưu để phòng ngừa, kiểm soát các rủi ro theo các thông lệ, quy định. Để quản lý rủi ro một cách có hiệu quả doanh nghiệp cần phải có Chiến lược trong đó phải xác định những rủi ro nào doanh nghiệp phải đối mặt, đặc biệt là các rủi ro trọng yếu có thể dẫn đến sự đổ vỡ của doanh nghiệp ngay khi thực hiện chiến lược kinh doanh đã lựa chọn và đưa ra các giải pháp phòng ngừa tối ưu nhất để quản lý những rủi ro này. Việc kiểm soát rủi ro phải thực hiện từ khi xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh trong đó chú ý vị thế của doanh nghiệp, đánh giá thị trường lạc quan hay bi quan (phân tích cơ bản và kỹ thuật thị trường), mức độ chấp nhận rủi ro trong tương lai. Việc kiểm soát phải đánh giá thường xuyên liên tục, nhận biết rõ những yếu tố biến động ảnh hưởng đến mục tiêu của tổ chức như tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, ảnh hưởng của việc biến động giá nguyên vật liệu chính… Doanh nghiệp có thể chịu đựng được nhiều yếu tố trên thị trường biến đổi dữ dội không? Một kế hoạch quản lý rủi ro tốt không chỉ giảm thiểu mức độ rủi ro, mà còn tạo ra độ linh hoạt/độ thanh khoản cao nhất có thể, trong khi vẫn giảm được các chi phí phát sinh từ chuyển giao rủi ro.

Một chiến lược và quy trình thực hiện hiệu quả luôn nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt quan trọng của lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp và đòi hỏi huy động trí tuệ tập thể của cả doanh nghiệp, khi nhân viên và lãnh đạo cùng chia sẻ ý tưởng và cùng tìm tòi để tìm ra giải pháp tốt nhất cho vấn đề hiện hữu. Báo cáo thường xuyên cho Lãnh đạo sẽ cung cấp cái nhìn rõ ràng về mức độ rủi ro để giúp phân loại ưu tiên các hoạt động liên quan đến rủi ro. Vì môi trường bên trong và bên ngoài thay đổi liên tục, nên các rủi ro cũng cần được đánh giá lại và cập nhật liên tục.

Tóm lại đối với mỗi rủi ro thì quyết định nên hạn chế, giám sát hay bỏ qua, chỉ khi nào thực sự xác định và lượng hóa được mỗi rủi ro, chúng ta mới quyết định được rủi ro đó cần được hạn chế, triệt tiêu hay duy trì. Để xác định các hành động để hạn chế rủi ro, xây dựng quy trình hành động can thiệp của các cấp, xác định mức độ tổn thất tối đa liên quan đến rủi ro. Các hành động can thiệp bắt buộc khi rủi ro đạt đến mức độ nào.

3) Thành tựu của quản trị rủi ro của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam:

Tuy ngành Dầu khí còn non trẻ nhưng vị thế và sự đóng góp của ngành đối với đất nước là không thể phủ nhận, đặc biệt là trong giai đoạn khó khăn trong thời gian qua. Ngành dầu khí đóng góp nhiều ngoại tệ nhất cho quốc gia, cùng với các sản phẩm thiết yếu phục vụ nền kinh tế quốc dân là sản phẩm điện khí, xăng dầu, khí nén cao áp, năng lượng sạch, phân ure và cung cấp khí hóa lỏng cho phát triển công nghiệp và tiêu dùng dân sinh trong cả nước. Ngành dầu khí đóng góp nhiều nhất vào ngân sách Nhà nước đặc biệt là những năm trước đây. Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu đang giảm dần song ngành Dầu khí Việt Nam vẫn là đơn vị duy trì mức đóng góp khoảng 18-22% tổng GDP cả nước, 25% đến 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Năm 2013, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã hoàn thành về đích trước tất cả các chỉ tiêu kế hoạch được Chính phủ giao, nổi bật làTổng doanh thu toàn Tập đoàn về đích trước kế hoạch 50 ngày (đạt 762,86 nghìn tỷ đồng, vượt 18% kế hoạch năm). Giatăng trữ lượng dầu khí về đích trước kế hoạch 01 tháng, Tổng sản lượng khai thác dầu khí về đích trước kế hoạch 16 ngày (đạt 35,6 triệu tấn quy đổi, bằng 101,7% kế hoạch năm). Đạt mốc khai thác tấn dầu thô thứ 310 triệu vào ngày 08/8/2013 và khai thác m3 khí thứ 90 tỷvào ngày 24/10/2013. Sản xuất điện về đích trước kế hoạch 53 ngày (đạt 16,17 tỷ kWh, bằng 116,7% kế hoạch năm). Đạt mốc sản suất KWh điện  thứ 70 tỷ vào ngày 22/12/2013. Sản xuất đạm đạt về đích trước kế hoạch 17 ngày (đạt 1,60 triệu tấn, bằng 105,4% kế hoạch năm). Đạt mốc sản xuất tấn phânđạm thứ 8 triệu vào ngày 20/9/2013. Sản xuất xăng dầu các loại về đích trước kế hoạch 62 ngày (đạt 6,60 triệu tấn, bằng 122,5% kế hoạch năm). Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đạt mốc sản xuất tấn xăng dầu thứ 20 triệu vào ngày20/5/2013. Hoạt động dịch vụ dầu khí tiếp tục được duy trì phát triển, doanh thu dịch vụ dầu khí năm 2013 đạt 236,3 nghìn tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch năm, chiếm 31% tổng doanh thu toàn Tập đoàn. Đặc biệt trong điều kiện năm 2013 thu nộp ngân sách Nhà nướcgặp nhiều khó khăn, toàn Tập đoàn đã nộp ngân sách Nhà nước đạt 195,4 nghìn tỷ đồng, vượt 31,5% kế hoạch năm, tăng 4,5% so với năm 2012, (vượt 46,8 nghìn tỷ đồng  - tương đương với 2,22 tỷ USD) so với kế hoạch đề ra, góp phần quantrọng để Chính phủ cân đối ngân sách năm 2013. Công tác triển khai thực hiện đề án tái cấu trúc doanh nghiệp được triển khai thực hiện khẩn trương, nghiêm túc, đảm bảo tiến độ yêu cầu tại Quyết định 46 của Thủ tướng Chính phủ và đã đạt được kế quả bước đầu. Hầu hết các đơn vị trong Tập đoàn đều hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch năm đã đề ra. 

4. Giải pháp để hạn chế rủi ro trong các hoạt động Dầu khí Việt Nam:

Việc mở rộng tìm kiếm thăm dò khai thác ra vùng biển nước sâu xa bờ rất tốn kém, rủi ro và đang bị tranh chấp. Trữ lượng dầu mỏ trong nước đang giảm xuống do tốc độ khai thác cao hơn so với tốc độ tìm kiếm, thăm dò. Do đó áp lực gia tăng trữ lượng, Tập đoàn đã và đang thực hiện các Dự án đầu tư ra nước ngoài với các rủi ro cao như chính sách của nước sở tại, tỷ giá, kinh nghiệm…Do khủng khoảng kinh tế nên việc thu xếp vốn cho các Dự án dầu khí cũng gặp nhiều khó khăn…

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam luôn là Tập đoàn do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp quyết định phê duyệt các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch,... cũng như được sự hỗ trợ đắc lực về nguồn vốn, công nghệ,... Luật Dầu khí và Luật Đầu tư nước ngoài cũng được thông qua với những điều kiện thuận lợi của sự quản lý của các Bộ, ban ngành Trung ương. Nhờ đó, Việt Nam đã thu hút sự chú ý của các công ty dầu khí lớn trên thế giới đến hợp tác thăm dò khai thác. Tuy nhiên là doanh nghiệp nhà nước có quản lý của Nhà nước nên khả năng năng động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh thấp, tính ỷ lại cao do tính cạnh tranh thấp. Nhân lực cũng như công nghệ chưa đáp ứng được hoàn toàn nhu cầu của ngành.

Theo phân tích, đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức (SWOT) thì các rủi ro của Petrovietnam được tổng kết trong mô hình sau:

Tập đoàn cũng đã thực hiện đồng bộ các giải pháp quản trị rủi ro như giải pháp về khoa học công nghệ, giải pháp về quản trị doanh nghiệp, giải pháp về tổ chức, con người để nhằm giảm thiểu các rủi ro trong hoạt động của mình.

Việc quản trị rủi ro trong Tập đoàn cũng được thực hiện qua các lớp theo đúng tinh thần Luật Doanh nghiệp như các Ban chuyên môn của Tập đoàn tùy theo chức năng giúp Tổng giám đốc phân tích đánh giá để tránh các rủi ro gặp phải trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Petrovietnam theo tùng lĩnh vực như an toàn môi trường, thu xếp vốn, thị trường…. Hội đồng Thành viên kiểm soát những rủi ro trong việc thực hiện các dự án, công trình lớn… của Tập đoàn và các đơn vị thành viên. Đến nay Chính phủ vẫn chưa bổ nhiệm Kiểm soát viên của Chủ sở hữu để kiểm soát mọi hoạt động của Tập đoàn nên tầng lớp này chưa được thực hiện, nhưng những năm gần đây Tập đoàn đều thực hiện kiểm toán độc lập và mời các đoàn Kiểm toàn Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Thanh tra tài chính, thuế…

Nhìn chung ở Việt Nam nói chung và ngành Dầu khí nói riêng thì chưa nhìn nhận đúng về vài trò của quản trị rủi ro, chưa quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của quản trị rủi ro, dẫn đến Quản trị rủi ro “bị động” hơn là “chủ động”. Các rủi ro hầu như không được dự báo trước, nhiều khi sự việc đã có hiện tượng, thậm trí là rủi ro đã xẩy ra mới lo giải quyết. Thiếu gắn kết giữa quản trị rủi ro và quản trị doanh nghiệp, kiểm soát, cấu trúc quản trị (cơ cấu tổ chức, vai trò chức năng, nhiệm vụ) chưa được quy định đầy đủ và rõ ràng, xem nhẹ vai trò của các kiểm soát viên, nên cử nhiều người không đủ năng lực, trình độ tiêu chuẩn để làm kiểm.soát. Công việc kiểm soát doanh nghiệp cũng là một công việc mới mẻ ở Việt Nam do nước ta mới hội nhập và việc thực hiện Luật Doanh nghiệp cũng mới và việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần hoặc TNHH một thành viên cũng chưa có kinh nghiệm.

Để hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả cần xây dựng một chiến lược quản trị rủi ro hoàn chỉnh và có hệ thống theo chuỗi giá trị giá tăng của ngành dầu khí nhằm thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát ngăn ngừa những rủi ro trọng yếu và có khả năng cao xẩy ra theo thứ tự ưu tiên. Mỗi hoạt động trong chuỗi giá trị dầu khí sẽ có các rủi ro trọng yếu khác nhau. Có chính sách, quy trình, quy chế quản trị rủi ro và bảo hiểm con người và tài sản trong ngành (biện pháp ngăn ngừa)./.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo năm (annual report) của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam;

2. Các trang web về quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, doanh nghiệp dầu khí;

3. Luật Dầu khí, Luật Doanh ngiệp và  các văn bản tài liệu khác…

TS. Nguyễn Xuân Thắng

Ths. Trần Thanh Tùng