Tóm tắt
Bài
báo giới thiệu kết quả phân tích phức hệ hóa thạch bào tử phấn hoa 10
mẫu thực địa từ trầm tích rift lục địa hệ tầng Sông Ba tại khu vực cầu
Cà Lúi (tuổi cuối Miocene sớm) và cầu Lệ Bắc (tuổi cuối Oligocene muộn
đến đầu Miocene sớm). Phức hệ hóa thạch bào tử phấn và tướng hữu cơ
trong đá cho phép xác định môi trường trầm tích là hồ nước ngọt có hiện
tượng lợ hóa và độ muối có xu hướng giảm theo tuổi địa chất từ già tới
trẻ. Kết quả phân tích cho thấy tuổi của trầm tích cổ hơn các nghiên cứu
trước đây, cần nghiên cứu chi tiết cổ sinh địa tầng giếng khoan
ENRECA-1 để làm sáng tỏ tuổi và môi trường lắng đọng trầm tích.
Từ khóa: Phức hệ hóa thạch bào tử phấn hoa, hệ tầng Sông Ba, tướng bào tử phấn, rift Sông Ba, Enreca-1, trầm tích hồ.
1. Giới thiệu
Trầm
tích rift lục địa hệ tầng Sông Ba là cấu trúc dài trên 300km, được
thành tạo do hệ thống đứt gãy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam kéo dài từ
Pô Kô - Sông Ba - Nha Trang (Hình 1), nằm trên đất liền phía Tây bể trầm
tích Phú Khánh. Hệ tầng trầm tích rift Sông Ba được lấp đầy các trầm
tích Đệ Tam trên diện tích 2.700km2, phát triển trong 2 graben (Ayun Pa
và Krông Pa) và ngăn cách bởi
móng nội sinh nổi cao (Hình 2). Trầm tích rift Sông Ba phân lớp mỏng có
xu hướng là các đơn nghiêng có hướng dốc theo hướng Đông Nam. Trầm tích
rift Sông Ba đã được nghiên cứu bởi nhiều giếng khoan nông và đặc biệt
có giếng khoan ENRECA-1 sâu 480m đã khoan thủng các trầm tích phủ Đệ Tam
tại trung tâm graben Krông Pa.

Hệ
tầng Sông Ba có diện phân bố trong các vùng Cheo Reo và Phú Túc thuộc
thung lũng Sông Ba đoạn từ cầu Bắc Lệ đến thị trấn Phú Túc đã được nhiều
nhà địa chất nghiên cứu và xác lập tên gọi là điệp Sông Ba hoặc hệ tầng
Sông Ba và xác định tuổi địa chất tương đối cũng khác nhau. Điệp Sông
Ba: các tác giả Trịnh Dánh, Vũ Khúc và nnk (1984) [9]; Trịnh Dánh (1985
và 1993) xác định tuổi địa chất Miocene muộn [10]. Hệ tầng Sông Ba: các
tác giả Trần Tính và nnk (1998) [13]; Trịnh Dánh, Vũ Khúc và nnk (2000)
xác định tuổi địa chất Miocene muộn [14]. Hệ tầng Sông Ba: các tác giả
Trịnh Dánh, Phan Cự Tiến và nnk (1989) [11]; Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ và nnk
(1990) xác định tuổi địa chất Miocene muộn [12].
Theo nghiên cứu
“Các phân vị địa tầng Việt Nam” năm 2005 của Tống Duy Thanh và Vũ Khúc
xác định hệ tầng Sông Ba nằm không chỉnh hợp trên loạt Bản Đôn tuổi Jura
sớm - giữa, trên rhyolite hệ tầng Mang Yang tuổi Trias giữa hoặc
granite tuổi Jura - Creta và xác định hệ tầng Sông Ba là Oligocene theo
hóa thạch thực vật gần gũi với hệ thực vật Nà Dương [1]. Trong nghiên
cứu của Trần Ngọc Khai và nnk [2], hệ tầng Sông Ba được xếp vào tuổi
Miocene từ kết quả đo vẽ bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ
1:50.000 nhóm tờ Krông Pa. Trong nghiên cứu “Địa tầng Kainozoi tại các
đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ”, Nguyễn Địch Dỹ và nnk cho rằng hệ tầng
Sông Ba có tuổi Miocene giữa - muộn [8]. Như vậy, còn nhiều quan điểm
chưa thống nhất về tuổi địa chất của trầm tích hệ tầng Sông Ba, thay đổi
từ Oligocene đến Miocene muộn.


2. Phân tích phức hệ hóa thạch bào tử phấn hoa trong trầm tích rift lục địa hệ tầng Sông Ba
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Phân
tích 10 mẫu thực địa tại 2 điểm dọc Sông Ba tại khu vực cầu Cà Lúi và
Lệ Bắc (Hình 3). Các chỉ tiêu phân tích cổ sinh địa tầng gồm vi cổ sinh,
tảo carbonate và bào tử phấn hoa toàn diện (palynology plus
palynofacies). Kết quả phân tích vi
cổ sinh và tảo carbonate không
tìm thấy hóa thạch. Nhưng kết quả phân tích bào tử phấn hoa cho tất cả
các mẫu phân tích chứa rất phong phú hóa thạch kể cả vật chất hữu cơ.
Quy
trình gia công mẫu bào tử phấn theo tiêu chuẩn lấy 10g mẫu giã dập nhỏ
kích thước 0,5 - 1,0mm, phá các thành phần vô cơ carbonate và silicate
bằng các acid HCl (10%) và HF (40%). Sau đó, tách mẫu bằng dung dịch
nặng tỷ trọng 2,2g/cm3. Mẫu được dán cố định 1 tiêu bản phủ lamen 22 x
22mm dùng cho phân tích bào tử phấn và tướng hữu cơ. Phần hữu cơ còn lại
được oxy hóa bằng acid HNO3 (65%) để làm giàu hóa thạch và dán 2 tiêu
bản cố định phủ lamen 22 x 40mm cho phân tích bào tử phấn hoa. Phân tích
và nhận dạng hóa thạch trên hệ thống kính hiển vi sinh vật AXIO Imager
A2 của hãng Zeiss với vật kính x 20 hoặc x 100 và thị kính x 10. Tổng
hóa thạch bào tử phấn được phân tích từ tất cả các tiêu bản cố định của
mỗi mẫu (3 tiêu bản). Tướng hữu cơ trong trầm tích được phân tích thành
phần các mảnh vụn hữu cơ trong đá nhằm xác định môi trường trầm tích cụ
thể hơn (Hình 4).
2.2. Kết quả phân tích
Tất
cả 10 mẫu được phân tích các chỉ tiêu cổ sinh địa tầng gồm: vi cổ sinh
(foraminifera), tảo vôi (nannofossil) và bào tử phấn hoa toàn diện
(palynology và palynofacies). Các phân tích vi cổ sinh và tảo vôi không
phát hiện được các di tích sinh vật biển tồn tại trong mẫu, bước đầu có
thể kết luận các trầm tích của hệ tầng Sông Ba được lắng đọng trong môi
trường lục địa.
Kết quả phân tích bào tử phấn hoa toàn diện đã
phát hiện được các phức hệ hóa thạch trong tất cả 10 mẫu rất giàu hóa
thạch và vật chất hữu cơ.
2.2.1. Nhóm mẫu lấy tại khu vực cầu Cà Lúi (gồm mẫu 1 và 2)
Phức
hệ hóa thạch phát hiện trong mẫu tại khu vực cầu Cà Lúi chứa từ 2.946 -
2.999 hạt bào tử phấn với 65 - 72 giống loài (Hình 5). Các hóa thạch
chủ yếu trong phức hệ bào tử phấn tìm thấy gồm Acrostichum aureum,
Crassoretitriletes nanhaiensis, Crassoretitriletes vanraadshooveni,
Gleichennidites spp., Lygodiumsporites spp., Pinuspollenites spp.,
Piceapollenites spp., Avicennia spp., Brownlowia spp., Calophyllum spp.,
Caryapollenites spp., Combretocarpus rotundatus, Cupuliferoipollenites
spp., Euphorbiaceae undiff., Eugeissona minor, Florschuetzia
levipoli, Florschuetzia trilobata, Florschuetzia trilobata (type A),
Florschuetzia trilobata (type B), Lagerstroemia spp.,
Retitricolporites spp., Retitricolpites spp., Shorea spp.,
Sporotrapoidites spp., Tricolporopollentes, Tricolpollenites spp.,
Verrutricolporites spp., Botryococcus braunii, Botryococcus spp.,
Bosedinia infragranulata, Tasmanites spp...
Tuổi địa chất của mẫu
1 và 2 là Miocene sớm được chứng minh bằng tập hợp hóa thạch đặc trưng
tìm thấy như: Sporotrapoidites spp., Bosedinia infragranulata,
Florschuetzia levipoli, Avicennia spp., Calophyllum spp., Eugeissona
minor và Combretocarpus rotundatus. Sự phát triển mạnh của
Crassoretitriletes nanhaiensis và Crassoretitriletes
vanraadshooveni trong cả 2 mẫu này theo nghiên cứu của J.H.Germeraad,
C.A.Hopping và J.Muller [5] có thể xếp vào đới thực vật vùng nhiệt đới
Crassoretitriletes vanraadshooveni thuộc tuổi cuối Miocene sớm.

Môi
trường trầm tích là hồ nước ngọt bị lợ hóa nhẹ nước sâu được nhận biết
bằng phức hệ hóa thạch Botryococcus spp., Botryococcus braunii,
Bosedinia infragranulata, Acrostichum aureum, Brownlowia spp. và thành
phần sapropel (80 - 90%) trong tổng hàm lượng vật chất hữu cơ.
2.2.2. Nhóm mẫu tại khu vực cầu Lệ Bắc (gồm 8 mẫu, số hiệu từ 3 đến 10)
Phức
hệ hóa thạch phát hiện trong mẫu tại khu vực cầu Lệ Bắc chứa từ 675 -
4.778 hạt bào tử phấn với 57 - 89 giống loài (Hình 6). Phức hệ hóa thạch
bào tử phấn đặc trưng gồm: Acrostichum aureum, Polypodiisporites
perverrucatus, Stenochlaena palustris, Pinuspollenites spp.,
Piceapollenites spp., Alangiopollis spp., Alnipollenites verus,
Avicennia spp., Barringtonia spp., Brownlowia spp., Calophyllum spp.,
Caryapollenites spp., Combretocarpus rotundatus, Cupuliferoipollenites
spp., Durio spp., Euphorbiaceae undiff., Florschuetzia trilobata,
Florschuetzia trilobata (type A), Florschuetzia trilobata (type B),
Florschuetzia trilobata (type C), Florschuetzia trilobata (robust),
Gothanipollis basensis, Jarandersonia spp., Lagerstroemia spp.,
Loranthaceae undiff., Pterospermum spp., Sporotrapoidites spp.,
Retitricolpites spp., Retitricolporites spp., Tricolporopollentes spp.,
Tricolpollenites spp., Verrutricolporites pachydermus, Botryococcus
spp., Bosedinia infragranulata, Tasmanites spp...

Tuổi
địa chất từ cuối Oligocene muộn đến đầu Miocene sớm được luận giải trên
cơ sở tìm thấy tập hợp hóa thạch đặc trưng Gothanipollis basensis,
Sporotrapoidites spp., Combretocarpus rotundatus, Calophyllum spp.,
Avicennia spp. và Eugeissona minor.
Môi trường lắng đọng trầm
tích của cả 8 mẫu là hồ nước ngọt bị lợ hóa được nhận biết bằng phức hệ
hóa thạch Botryococcus spp., Bosedinia infragranulata, Magnastriatites
howardi, Barringtonia spp., Brownlowia spp. với thành phần sapropel (5 -
30%) và mảnh hữu cơ loại 3 (30 - 40%, thậm chí 70%). Như vậy, môi
trường lắng đọng trầm tích hồ xác định cho các mẫu phân tích này là phù
hợp với mô hình thành tạo các trầm tích rift Sông Ba (Hình 7).
So
sánh kết quả phân tích bào tử phấn từ 2 khu vực cầu Lệ Bắc và cầu Cà
Lúi cho thấy nhóm mẫu khu vực cầu Cà Lúi là cuối Miocene sớm, trẻ hơn
tuổi địa chất của nhóm mẫu khu vực cầu Lệ Bắc là phù hợp với cấu trúc
địa chất trầm tích rift Sông Ba (Hình 2). Sự phát triển thực vật ngập
mặn Brownlowia spp. Trong các mẫu khu vực cầu Lệ Bắc được chuyển lên
thực vật ngập mặn Acrostichum aureum có độ muối nhạt hơn trong nhóm mẫu
khu vực cầu Cà Lúi. Ranh giới địa chất Miocene sớm và Oligocen muộn có
thể tìm thấy trong các giếng khoan khi nghiên cứu cổ sinh địa tầng và
đặc biệt là giếng khoan ENRECA-1 tại Phú Cần (tọa độ VN2000: 145, 87, 99
- 24, 81, 53) thuộc graben Krông Pa. Do vậy, cần phải nghiên cứu chi
tiết cổ sinh địa tầng mặt cắt trầm tích giếng khoan ENRECA-1.
Kết
quả phân tích tướng hữu cơ (palynofacies) cho thấy tổng vật chất hữu cơ
trong đá cao với thành phần sapropel và spore-pollen-cutinite (hóa
thạch bào tử phấn và mảnh hữu cơ loại 3) khá cao, phù hợp với các kết
quả phân tích địa hóa TOC trong giếng khoan ENRECA-1 [3].
3. Kết luận và kiến nghị
Kết
quả phân tích cổ sinh địa tầng 10 mẫu thực địa từ 2 khu vực trong trầm
tích rift lục địa hệ tầng Sông Ba được lắng đọng trong môi trường hồ
nước ngọt bị lợ hóa, chứa phức hệ hóa thạch bào tử phấn hoa rất phong
phú có tuổi địa chất tương đối là cuối Miocene sớm (tại khu vực cầu Cà
Lúi) và cuối Oligocene muộn đến đầu Miocene sớm (tại khu vực cầu Lệ
Bắc). Tuổi địa chất của các trầm tích rift lục địa khác nhau ở khu vực
cầu Cà Lúi và cầu Lệ Bắc phù hợp mô hình địa chất rift lục địa hệ tầng
Sông Ba.
Kết quả nghiên cứu khác với các công trình nghiên cứu
địa chất về hệ tầng Sông Ba đã được công bố trước đây. Ranh giới địa
chất Oligocene và Miocene trong hệ tầng Sông Ba có thể được làm rõ khi
nghiên cứu chi tiết cổ sinh địa tầng mặt cắt trầm tích giếng khoan
ENRECA-1 sâu 480m đã xuyên thủng trầm tích Đệ Tam rift lục địa Sông Ba.
Trên cơ sở đó, cần có các nghiên cứu địa chất địa vật lý chi tiết để làm
sáng tỏ cấu trúc địa chất và tiềm năng dầu khí các trầm tích rift lục
địa hệ tầng Sông Ba.
Tài liệu tham khảo
1.
Tống Duy Thanh, Vũ Khúc, Đặng Trần Huyên, Đoàn Nhật Trưởng, Đỗ Bạt,
Nguyễn Địch Dỹ, Nguyễn Hữu Hùng, Phạm Huy Thông, Phạm Kim Ngân, Tạ Hòa
Phương, Trần Hữu Dần, Trần Tất Thắng, Trần Văn Trị, Trịnh Văn Long. Các
phân vị địa tầng Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. 2005:
trang 381 - 383.
2. Trần Ngọc Khai, Nguyễn Hùng Cường, Nguyễn Huy
Dũng. Một số thông tin mới về hệ tầng Sông Ba qua kết quả đo vẽ bản đồ
địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Krông Pa. Liên
đoàn Bản đồ Địa chất miền Nam. 2009.
3. Lê Văn Hiền,
H.I.Petersen, L.H.Nielsen. Kết quả nghiên cứu địa hóa giếng khoan
Enreca-1 ở trũng Sông Ba: Một bằng chứng của đá mẹ sinh dầu tuổi Miocen
và ý nghĩa của nó đối với các bể trầm tích ở Việt Nam. Tuyển tập Báo cáo
Hội nghị Khoa học - Công nghệ 30 năm Dầu khí Việt Nam. Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật. 2005; 1: trang 380 - 386.
4. L.H.Nielsen,
H.I.Petersen, N.D.Thai, N.A.Duc, M.B.W.Fyhn, L.O.Boldreel, H.A.Tuan,
S.Lindstrom, L.V.Hien. A Middle-upper Miocene fluvial-lacustrine rift
sequence in the Song Ba rift, Vietnam: An analogue to oil-prone, small-
scale continental rift basins. Petroleum Geoscience. 2007; 13(2): p. 145
- 168.
5. J.H.Germeraad, C.A.Hopping, J.Muller. Palynology of
tertiary sediments from tropical areas. Review of Palaeobotany and
Palynology. 1968; 6(3-4): p. 189 - 348.
6. R.J.Morley. Tertiary
stratigraphic palynology in Southeast Asia: Current status and new
direction. Bulletin of the Geological Society of Malaysia. 1991; 28: p. 1
- 36.
7. J.M.Cole. Freshwater dinoflagellate cysts and
acritarchs from Neogene and Oligocene sediments of the South China sea
and adjacent areas. Neogene and Quaternary Dinoflagellate Cysts and
Acritarchs. 1992: p. 181 - 196.
8. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn
Thuận, Nguyễn Trọng Tấn, Vũ Văn Hà, Lê Đức Lương, Phan Đông Pha. Địa
tầng Kainozoi tại các đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ. Tạp chí các Khoa
học Trái đất. 2010; 32(1) trang 1 - 7.
9. Vũ Khúc (chủ biên). Hóa thạch đặc trưng ở miền Nam Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. 1984.
10. Trịnh Dánh. Những nét cơ bản về trầm tích Đệ tam ở Việt Nam. Tạp chí Địa chất và Khoáng sản. 1985; 2: trang: 43 - 59.
11.
Phan Cự Tiến (chủ biên). Địa chất Campuchia, Lào, Việt Nam: Thuyết minh
bản đồ địa chất Campuchia, Lào, Việt Nam tỷ lệ 1: 1.000.000. Tổng cục
Mỏ - Địa chất. 1989.
12. Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ. Địa chất Việt Nam. Tập I. Địa tầng. Tổng cục Mỏ Địa chất. Hà Nội. 1990.
13.
Trần Tính (chủ biên). Địa chất và khoáng sản tờ Kon Tum - Buôn Ma
Thuột: tờ Măng Đen - Bồng Sơn, tờ Kon Tum, tờ Quy Nhơn, tờ An Khê, tờ
Pleiku, tờ Tuy Hòa, tờ Buôn Ma Thuột, tờ bản đồ tỷ lệ 1.200.000. Cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam. 1997.
14. Vũ Khúc. Sách tra cứu các phân vị địa chất Việt Nam. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. 2000.
Palynomorph assemblages in the Song Ba continental rift sediments
Chu Duc Quang
Vietnam Petroleum Institute
Summary
The
article presents the results of analysis of palynomorph assemblages
from ten outcrop samples of Song Ba continental rift sediments of Ca Lui
and Le Bac bridges areas, of Earliest Miocene and Latest Oligocene
respectively. The palynomorph assemblage and palynofacies made it
possible to determine that the depositional environments of all analytic
outcop samples are freshwater lacustrine with slight brackish water
conditions and salt decreasing trends from old to young geological age.
These analytical results indicated that the age of Sông Ba continent
rift sediments is older than concluded in previous studies. Thus, the
biostratigraphy in ENRECA-1 well needs to be studied in detail to
clarify the age and the depositional environment.
Key words: Palynomorphs, Song Ba formation, palynofacies, Song Ba rift, Enreca-1, lacustrine sediments.