Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long
PV: Thưa ông, điểm mới nổi bật nhất của Nghị quyết 70 so với Nghị quyết 55 là gì?
PGS.TS Ngô Trí Long: Dưới góc nhìn chính sách, điểm mới quan trọng nhất của Nghị quyết 70 là chuyển trọng tâm từ “định hướng phát triển” như ở Nghị quyết 55 sang “bảo đảm an ninh năng lượng với các chỉ tiêu ràng buộc cụ thể và công cụ thực thi rõ ràng”. Đồng thời, Nghị quyết cũng đẩy mạnh cải cách thị trường điện đến tận khâu bán lẻ. Cụ thể có thể thấy ở 6 khía cạnh nổi bật như:
Thứ nhất là về chỉ tiêu bắt buộc và công cụ thực thi. Nghị quyết 70 lần đầu tiên quy định chỉ tiêu tiết kiệm năng lượng bắt buộc theo từng ngành, địa phương, đặt mục tiêu tiết kiệm 8-10% và giảm phát thải 15-35% so với kịch bản thông thường đến năm 2030. Đồng thời, Nghị quyết bổ sung các công cụ: chuẩn hiệu suất cho thiết bị, phương tiện, tòa nhà; nghiên cứu áp dụng thuế carbon và thị trường tín chỉ carbon (kết nối quốc tế); thúc đẩy công nghệ thu giữ, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS). Trong khi đó, Nghị quyết 55 chỉ dừng ở mức định hướng tiết kiệm 7% và gắn với chiến lược khí hậu, chưa có cơ chế ràng buộc theo ngành/địa phương hay công cụ giá carbon.
Thứ hai là cải cách thị trường điện sâu hơn. Nghị quyết 70 yêu cầu triển khai hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), tăng quyền lựa chọn đơn vị bán lẻ điện cho khách hàng, tách bạch khâu bán lẻ, cải cách giá truyền tải để thu hút tư nhân. Đồng thời khuyến khích đầu tư tư nhân vào hệ thống lưu trữ (pin), kho LNG, kho xăng dầu. Nghị quyết 55 cũng đặt mục tiêu thị trường cạnh tranh, xóa độc quyền nhưng chưa mở rộng đến quyền chọn nhà cung cấp cho người dùng.
Thứ ba là điều chỉnh mạnh mục tiêu định lượng đến 2030. Theo đó, tỷ trọng năng lượng tái tạo (NLTT) trong tổng cung sơ cấp chiếm 25-30% (Nghị quyết 55 là 15-20%); tổng công suất nguồn điện 183-236 GW (Nghị quyết 55 là 125-130 GW); sản lượng điện 560-624 tỷ kWh (Nghị quyết 55 là 550-600); mục tiêu độ tin cậy và tiếp cận điện Top 3 ASEAN (Nghị quyết 55 là Top 4). Những chỉ tiêu này cao hơn nhiều, phản ánh yêu cầu bảo đảm đủ điện cho giai đoạn tăng trưởng cao.
Thứ tư là khởi động lại điện hạt nhân. Nghị quyết 70 yêu cầu sớm triển khai các dự án Ninh Thuận 1 và 2, dự kiến vận hành vào năm 2030-2035, đồng thời nghiên cứu phát triển lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR), Nghị quyết 55 không đưa ra cam kết cụ thể về điện hạt nhân.
Thứ năm là về chiến lược dự trữ và lưu trữ năng lượng. Ngoài mục tiêu dự trữ xăng dầu 90 ngày nhập ròng (đã có trong Nghị quyết 55), Nghị quyết 70 bổ sung chiến lược dự trữ năng lượng quốc gia, đầu tư hệ thống pin lưu trữ quy mô lớn và phát triển các trung tâm LNG.
Thứ sáu là về đào tạo nhân lực và phát triển công nghệ: Nghị quyết 70 đặt mục tiêu đào tạo 25.000-35.000 kỹ sư, chuyên gia năng lượng, đặc biệt trong lĩnh vực hạt nhân và NLTT. Đây là điểm mới chưa từng được lượng hóa trong Nghị quyết 55.
Có thể nói, Nghị quyết 70 được coi là bước ngoặt thể chế nhằm vừa bảo đảm đủ điện, vừa giảm phát thải, đồng thời gia tăng sức chống chịu của hệ thống năng lượng quốc gia trong thập kỷ tới.
PV: Nghị quyết 70 khẳng định phát triển NLTT, năng lượng sạch là ưu tiên hàng đầu. Theo ông, định hướng này sẽ tác động như thế nào đến bức tranh tổng thể ngành năng lượng Việt Nam trong giai đoạn tới?
PGS.TS Ngô Trí Long: Việc Nghị quyết 70 đặt phát triển NLTT và năng lượng sạch là ưu tiên hàng đầu sẽ tạo ra 5 thay đổi cấu trúc lớn đối với bức tranh năng lượng Việt Nam trong giai đoạn tới.
Một là, dịch chuyển cơ cấu nguồn theo hướng xanh hóa. Tỷ trọng điện gió, điện mặt trời tăng mạnh, đồng thời bổ sung thêm điện hạt nhân để bảo đảm nguồn nền khi tỷ trọng NLTT cao.
Hai là, lưới điện thông minh và lưu trữ trở thành điều kiện bắt buộc. Giai đoạn 2025-2030 sẽ xây mới gần 13.000 km đường dây 500 kV và hơn 15.000 km đường dây 220 kV; phát triển hệ thống lưu trữ 10-16,3 GW đến 2030.
Ba là, bứt tốc điện gió ngoài khơi, mặt trời quy mô lớn và rooftop. Mục tiêu đạt 6-17 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030-2035; điện mặt trời rooftop phát triển theo hướng tự dùng và kết nối DPPA.
Bốn là, tiết kiệm năng lượng trở thành chuẩn bắt buộc. Mục tiêu tiết kiệm 8-10%, giảm phát thải 15-35%, đưa cơ chế thuế và thị trường carbon vào thực tiễn.
Năm là, huy động vốn lớn, tăng kết nối khu vực. Nhu cầu đầu tư giai đoạn 2026-2030 khoảng 136 tỷ USD, huy động từ PPP, tín dụng xanh, JETP và vốn FDI. Đồng thời, mở rộng nhập khẩu điện sạch từ Lào và hướng tới xuất khẩu sang Singapore, Malaysia.
Tóm lại, Nghị quyết 70 đã “khóa” trục phát triển NLTT bằng công cụ bắt buộc về hiệu quả năng lượng, khung pháp lý cho thị trường điện - carbon và một quy hoạch lưới/lưu trữ rất tham vọng. Nếu thực thi đúng tiến độ, cơ cấu nguồn sẽ chuyển dịch rõ nét sang mặt trời - gió - lưu trữ, được bổ trợ bởi hạt nhân và nhập xuất khẩu điện sạch. Qua đó, Việt Nam vừa giảm độ lệ thuộc nhiên liệu hóa thạch, nâng cao an ninh năng lượng, vừa nâng cao sức cạnh tranh trong chuỗi cung ứng xanh toàn cầu.
Nghị quyết 70 có thể tháo gỡ những "nút thắt" để phát triển điện gió ngoài khơi trong thời gian tới (ảnh minh họa)
PV: Hiện nay, nhiều dự án NLTT, nhất là điện gió ngoài khơi, đang gặp vướng mắc về pháp lý, quy hoạch, cơ chế giá. Theo ông, Nghị quyết 70 có thể tháo gỡ những nút thắt này ra sao?
PGS.TS Ngô Trí Long: Theo tôi, Nghị quyết 70 tạo ra hành lang chính trị - pháp lý đủ rộng để tháo gỡ đồng thời ba nút thắt lớn của NLTT, trong đó có điện gió ngoài khơi.
Thứ nhất, về pháp lý. Nghị quyết đã chuẩn hóa quyền khảo sát, cấp phép biển, xử lý chồng lấn không gian; đồng thời yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng, tranh chấp, thanh toán và xây dựng khung pháp lý chuyên biệt cho điện gió ngoài khơi.
Thứ hai, về quy hoạch. Nghị quyết bảo đảm sự đồng bộ giữa Quy hoạch điện VIII và quy hoạch không gian biển; phát triển hạ tầng truyền tải đi trước (HVDC, cáp ngầm), mở cơ chế xã hội hóa lưới điện và bố trí vốn cho các dự án trọng điểm.
Thứ ba, về cơ chế giá và đầu ra. Nghị quyết thiết kế hợp đồng mua bán điện (PPA) dài hạn, minh bạch, ổn định; áp dụng đấu thầu, đấu giá, cơ chế CfD; mở rộng DPPA và thị trường bán lẻ cạnh tranh; khắc phục vướng mắc giá chuyển tiếp. Đi cùng đó là cơ chế bảo lãnh Chính phủ có chọn lọc, huy động trái phiếu (kể cả xanh), khai thác JETP và ODA để hạ chi phí vốn cho các dự án điện gió ngoài khơi có CAPEX lớn.
Tóm lại, Nghị quyết 70 đã “mở khóa” đồng thời ba khía cạnh pháp lý - quy hoạch - cơ chế giá, biến tiềm năng to lớn của năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, thành các dự án khả thi và có thể ngân hàng hóa, qua đó hiện thực hóa mục tiêu 2030-2045.
PV: Điện gió ngoài khơi được coi là nguồn năng lượng chiến lược của Việt Nam, song tiến độ các dự án còn rất chậm. Với tinh thần của Nghị quyết 70, theo ông, đâu là bước đi quan trọng nhất để sớm đưa loại hình năng lượng này vào vận hành?
PGS.TS NGô Trí Long: Theo tôi, bước đi quan trọng nhất là thiết lập ngay một cơ chế mua điện dài hạn “đấu thầu - Hợp đồng chênh lệch (Contracts for Difference, CfD) theo lộ trình thí điểm 4-6 GW, được luật hóa và vận hành “một cửa”, gắn liền cấp phép không gian biển - phân bổ điểm đấu nối - cam kết nâng cấp lưới. Đây là “điểm bùng phát” giúp ngân hàng hóa dòng tiền, chốt quyết định đầu tư (FID) và tạo chuỗi cung ứng trong nước. Nghị quyết 70 yêu cầu áp dụng giá theo tín hiệu thị trường, huy động mạnh mẽ khu vực tư nhân, phát triển NLTT là ưu tiên hàng đầu - đủ căn cứ chính trị để triển khai cơ chế này ngay, đưa các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam từ ý tưởng sang FID và tiến tới phát điện thương mại ngay trong giai đoạn 2030-2035.
Kho chứa LNG Thị Vải của PV GAS, đơn vị thành viên của Petrovietnam
PV: Nhiều dự án điện khí LNG chậm do vướng hạ tầng, cơ chế giá và vốn, Nghị quyết 70 có thể mở ra hướng giải quyết thế nào để đẩy nhanh tiến độ, thưa ông?
PGS.TS Ngô Trí Long: Tôi cho rằng, Nghị quyết 70 đã mở “đường băng” chính sách cho điện khí LNG với 7 hướng đột phá lớn. Trước hết, Nghị quyết khẳng định nguyên tắc giá điện theo thị trường, xóa bỏ bù chéo, tạo nền tảng để hợp đồng mua bán điện LNG có cấu trúc minh bạch, giảm rủi ro tài chính cho nhà đầu tư. Cùng với đó, hệ thống khung giá bán lẻ, giá phát điện và các quy định mới về PPA đã được ban hành, giúp định hình rõ hành lang pháp lý cho dự án LNG.
Tiếp theo, việc điều chỉnh Quy hoạch điện VIII đến năm 2030 đặt mục tiêu đạt 22.524 MW điện LNG, yêu cầu các bộ, ngành và địa phương đồng bộ quy hoạch đất đai, cảng, kho bể và lưới truyền tải để tránh lặp lại điểm nghẽn như NLTT. Hạ tầng nhập khẩu LNG cũng đang được tăng tốc, với các dự án lớn tại Thị Vải, Sơn Mỹ, Long Sơn. Nếu được đưa vào danh mục công trình trọng điểm, các dự án này sẽ được rút ngắn thủ tục và hợp nhất đầu mối phê duyệt.
Nghị quyết 70 còn nhấn mạnh chuẩn hóa cơ chế PPA, bảo lãnh và chia sẻ rủi ro để huy động vốn quốc tế; giao PV GAS đóng vai trò điều phối tập trung nhằm quản trị rủi ro nhiên liệu và bảo đảm dự trữ năng lượng quốc gia. Đồng thời, LNG cũng phải gắn với mục tiêu Net Zero, thiết kế sẵn sàng cho CCS, hydrogen và kiểm soát cường độ carbon để tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn xanh.
Thực tế, các nhà máy Nhơn Trạch 3 và 4 đã hòa lưới thành công, chứng minh chuỗi khí LNG - điện có thể vận hành thương mại tại Việt Nam, qua đó củng cố niềm tin thị trường. Nghị quyết 70 không chỉ ưu tiên LNG trong cơ cấu nguồn điện, mà còn trao bộ công cụ thực thi toàn diện. Nếu các mắt xích từ giá, hợp đồng mua bán điện, hạ tầng, vốn đến dự trữ được vận hành đồng bộ, các dự án LNG sẽ có bước bứt phá, giữ vai trò quan trọng trong bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải giai đoạn 2025-2030.
PV: Để đạt mục tiêu đến năm 2030 NLTT chiếm 25-30% tổng cung, theo ông đâu là điểm nghẽn chính cần tháo gỡ?
PGS.TS Ngô Trí Long: Nút thắt then chốt chính là thể chế và thiết kế thị trường, không phải công nghệ hay vốn. Thực tế vài năm qua cho thấy, các dự án chậm chủ yếu do cơ chế giá, hợp đồng mua bán, quy trình cấp phép - đấu nối và rủi ro pháp lý, chứ không phải thiếu tấm pin mặt trời hay turbine gió.
Đến cuối năm 2023, tổng công suất điện mặt trời và điện gió đạt 21.664 MW (27% công suất lắp đặt), nhưng sản lượng chỉ khoảng 13-14% do hạn chế lưới và cắt giảm công suất. Quy hoạch điện VIII điều chỉnh (4/2025) đã nâng mục tiêu NLTT lên 28-36% vào năm 2030 (không tính thủy điện). Muốn hiện thực hóa, “luật chơi” phải cho phép các dự án vận hành thực chất, không chỉ dừng ở con số lắp đặt. Tranh chấp giá mua điện với nhóm dự án FIT đầu 2025 đã làm giảm niềm tin, đẩy chi phí vốn tăng, khiến vòng đời dự án mới chậm lại.
Trong giai đoạn 2024-2025, Chính phủ đã ban hành cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), Luật Điện lực 2024, Nghị định về điện gió ngoài khơi, quy hoạch không gian biển… Tuy nhiên, các chính sách này cần được hoàn thiện chi tiết: từ phí truyền tải, cơ chế cân bằng hệ thống, bồi hoàn khi cắt giảm, đến mẫu hợp đồng PPA đủ chuẩn ngân hàng. Nếu quy trình đấu thầu - cấp phép - đấu nối thiếu ổn định, dòng vốn quốc tế sẽ khó tham gia.
Hạ tầng và vốn cũng là “điểm nghẽn”, nhưng sẽ tự mở khi thể chế thông suốt. Ví dụ, đường dây 500 kV mạch 3 đã hoàn thành, song nhu cầu vốn truyền tải đến 2030 vẫn rất lớn, đòi hỏi huy động PPP/BOO/TOT. Vốn quốc tế, kể cả JETP, chỉ giải ngân khi dự án đáp ứng chuẩn môi trường - xã hội - quản trị và có hợp đồng mua bán điện đủ điều kiện vay vốn.
Do vậy, ưu tiên 2025-2030 là: chuẩn hóa cơ chế hợp đồng và giá; triển khai thực chất DPPA; “một cửa” cho điện gió ngoài khơi; mở cơ chế tư nhân đầu tư lưới; khuyến khích điện mặt trời mái nhà, DPPA nội khu; và dứt điểm các dự án chuyển tiếp.
Nếu buộc chọn một khâu để bứt phá, thì chính là thể chế. Khi luật chơi rõ ràng, vốn sẽ tự chảy, lưới sẽ mở rộng và công nghệ sẵn có sẽ phát huy để đạt mục tiêu 25-30% vào năm 2030.
PV: Ông kỳ vọng Nghị quyết 70 sẽ tạo ra những thay đổi cụ thể nào trong 5 năm tới đối với các dự án năng lượng sạch, nhất là điện gió ngoài khơi và LNG?
PGS.TS Ngô Trí Long: Tôi cho rằng, tinh thần “giải quyết nút thắt - tạo năng lực mới” trong Nghị quyết 70 sẽ tạo ra nhiều thay đổi quan trọng đối với các dự án năng lượng sạch giai đoạn 2025-2030, nhất là điện gió ngoài khơi và điện khí LNG.
Trước hết, hành lang pháp lý và cơ chế giá cho điện gió ngoài khơi sẽ được hoàn thiện, với khung giá đã ban hành làm cơ sở để EVN đàm phán PPA. Khi PPA có điều khoản chia sẻ rủi ro và cam kết sản lượng tối thiểu, dự án mới đạt chuẩn tín dụng. Tôi kỳ vọng 3-5 cụm dự án có thể hoàn tất khảo sát, được phê duyệt và đạt FID trước năm 2030.
Thứ hai, thủ tục hành chính sẽ được rút ngắn nhờ cơ chế “một cửa” và đấu thầu minh bạch, giúp giảm tới 30-40% thời gian chuẩn bị, mở đường cho loạt dự án điện gió ngoài khơi đi vào xây dựng.
Thứ ba, hệ thống lưới điện và điểm đấu nối chiến lược sẽ được nâng cấp mạnh, với các đường dây 500 kV, hành lang cáp ngầm và tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho gió ngoài khơi, đồng thời nhận vốn ưu tiên từ JETP để mở rộng truyền tải và lưu trữ.
Cuối cùng, đối với LNG, việc tháo gỡ cơ chế giá và PPA sẽ quyết định khả năng mở rộng. Khi giá điện LNG phản ánh đúng biến động nhiên liệu và rủi ro được phân bổ hợp lý, 3-5 GW công suất LNG mới có thể vận hành trước năm 2030, bảo đảm phụ tải cực đại và hỗ trợ cân bằng hệ thống trước sự biến động của NLTT.
PV: Xin cảm ơn ông!
Mạnh Tưởng