Người mê... dầu!
Giải pháp đột phá về khoa học công nghệ hiện đang được triển khai áp dụng mạnh mẽ trong ngành Dầu khí. Để tiến bộ khoa học kỹ thuật đi vào thực tế sản xuất, ngoài đường lối, chính sách... điều quan trọng nhất là cái tâm, cái tầm của các nhà khoa học. Kể từ những chặng đường đầu tiên của sự nghiệp đi tìm lửa, những cán bộ khoa học dầu khí đã luôn đau đáu khát vọng về một tương lai sánh vai cường quốc. Báo điện tử Petrotimes mời bạn đọc trở về những ngày gian khó nhưng đầy khí thế ấy... cùng một cán bộ nghiên cứu từng có những đóng góp âm thầm nhưng vô cùng quan trọng, Tiến sĩ hóa học Trương Đình Hợi.

PV: Là một nhà khoa học mà cả cuộc đời gắn bó với dầu khí, cơ duyên nào đã đưa ông tới với cái nghề gian khổ, khó nhọc này?

Tiến sĩ Trương Đình Hợi

TS Trương Đình Hợi: Tôi sinh năm 1947 tại vùng quê Ninh Bình. Tốt nghiệp Khoa Công nghệ lọc hóa dầu, Trường đại học Dầu mỏ - Khí đốt và Địa chất Bucarest Rumani năm 1972 và thực tập sinh tại Viện Nghiên cứu Hydrocacbon Bucarest từ 1972 đến 1974.

Tháng 4/1974, tôi về nước và được phân công về Đoàn 36B, Tổng cục Địa chất, làm việc ở phòng thí nghiệm tại thị xã Hưng Yên. Năm 1978, Đoàn 36B phát triển thành Viện Dầu khí Việt Nam. Năm 1987 tôi chuyển công tác vào Phân viện Lọc hóa dầu tại TP Hồ Chí Minh thuộc Tổng cục Dầu khí.

Những năm tháng học phổ thông thời đó, chúng tôi tiếp nhận thông tin chỉ qua Đài Tiếng nói Việt Nam (chưa có truyền hình) và qua các cuốn phim thời sự trong các lần xem chiếu phim ở ngoài trời. Nhìn thấy máy móc trong các công xưởng, máy cày trên các cánh đồng tôi thích học ngành cơ khí. Hồ sơ gửi thi đại học được ghi 2 nguyện vọng nên tôi đã ghi thi vào Trường ĐH Bách khoa và Trường ĐH Nông nghiệp (Khoa Chế tạo máy móc). Khi là lưu học sinh ở Rumani, tôi được phân học Khoa Công nghệ lọc hóa dầu. Tổ chức phân công thì chấp hành, đó là lý do tôi vào ngành Dầu khí.

PV: Mảng công việc ông phụ trách lâu nhất? Thời kỳ nào ông cho là gian khổ nhất? Xin ông kể vài kỷ niệm về những thời điểm khó khăn, những vất vả gian nan mà ông đã từng trải qua và lúc ấy tinh thần của người dầu khí thế nào, thưa ông?

TS Trương Đình Hợi: Công việc tôi làm lâu nhất là phụ trách Phòng Thí nghiệm “Phân tích, đánh giá chất lượng dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ”. Khi thực tập ở Viện Nghiên cứu hydrocacbon Rumani với nhiệm vụ chính được Tổng cục Địa chất giao là “nghiên cứu xây dựng một phòng thí nghiệm phân tích dầu mỏ”, lúc đó chúng ta đã xác định Việt Nam sẽ có dầu.

Khi về Đoàn 36B, Phòng Thí nghiệm hóa mới thành lập tổ phân tích dầu mỏ với 8 cán bộ, 15m2 phòng làm việc, ngoài mấy cái bàn đá granito, không có máy móc thiết bị gì. Đó là “vốn” khởi đầu, từ con số 0, nhiệm vụ là phải tự xây dựng lấy mọi thứ.

Thời kỳ ấy khó khăn chung của đất nước, tiền không có, dầu mỏ thì chưa tìm được nên sự ưu tiên cũng chỉ có hạn. Vậy nên gian khổ và khó khăn là lẽ thường. Việc trước tiên cần làm là dịch sách về chuyên ngành Dầu khí, biên soạn tài liệu hướng dẫn quy trình phân tích, lên danh mục những máy móc, thiết bị phân tích dầu mỏ cần thiết để đề nghị mua, nhập… Tìm trong kho của Đoàn 36B những thiết bị cơ bản như cân, lò nung, tủ sấy, bình lọ thủy tinh… tự chắp vá tạo ra các thiết bị thô sơ, cũng để chưng cất, đo tỷ trọng, xác định thành phần dầu như cacbon, hydro, lưu huỳnh, nitơ…

Do chưa có dầu mỏ nên để thực hành trong đào tạo, chúng tôi phải làm mẫu “dầu giả” bằng cách lấy các sản phẩm xăng dầu… trộn lại cho giống với thành phần dầu mỏ. Từ mẫu này anh chị em đã thực hành chưng cất dầu, phân tích bằng các thiết bị tự tạo. Mùa hè nóng thiêu đốt, mùa đông rét cóng, 4-5 người sống trong 1 phòng tập thể 10m2, không quạt máy, thiếu điện, thiếu nước, như anh em thời đó mô tả: “Ai về thị xã Hưng Yên/ Trời mưa có nước, nửa đêm có đèn”. Vậy mà không khí làm việc vẫn hăng say với tràn đầy hy vọng. Ban ngày làm việc, buổi tối cùng nhau học ngoại ngữ, trao đổi chuyên môn, tham dự sinh hoạt khoa học, nghe báo cáo chuyên đề… thật là khí thế, cuộc đời mới đẹp làm sao!

PV: Nhiều nhà khoa học lỗi lạc cũng từng có thời nghiên cứu “chay” như vậy, thưa ông, sự lạc quan ấy cuối cùng cũng được đền đáp?

TS Trương Đình Hợi: Niềm vui ập đến vào năm 1975 khi giếng khoan 61 ở huyện Tiền Hải, Thái Bình cho dòng khí đầu tiên, những can dầu lỏng được mang về phòng thí nghiệm. Đèn sáng thâu đêm, cán bộ phân tích làm việc không nghỉ để mong sớm có kết quả. Thực tế chỉ là condensat, phần lỏng kéo theo cùng với khí. Tuy vậy, đây vẫn là niềm vui lớn sau bao năm mong đợi của những người đi tìm lửa.

Khi miền Nam được giải phóng, những mẫu dầu từ giếng khoan Bạch Hổ, Dừa 1X được đưa về phòng thí nghiệm. Giếng khoan 63 Tiền Hải lại phát hiện dầu mỏ. Phòng thí nghiệm của chúng tôi hoạt động “hết công suất” trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, nhưng niềm vui cho mọi người không sao mô tả được.

Ngành Dầu khí Việt Nam đã “ra hình” rõ nét, niềm tin, lòng hăng say của cán bộ nghiên cứu Đoàn 36B nói riêng và ngành Dầu khí nói chung như được tiếp lửa. Sự quan tâm của ngành “theo yêu cầu” cụ thể của cán bộ phòng thí nghiệm, được Chính phủ cấp tiền, trang bị cho phòng phân tích dầu, khí và cơ lý với tổng số 80.000F (quan Pháp). Từ năm 1978, Phòng Thí nghiệm phân tích dầu khí nhập từ Pháp của Viện Dầu khí đã ra đời. Anh em thời đó vẫn nói vui là “hiện đại nhất Đông Dương”. Tiếp sau đó, Viện Dầu khí được đầu tư 11 phòng thí nghiện với kinh phí 12 triệu F. Thật là hoàn chỉnh, thế mới xứng là Viện Nghiên cứu Dầu khí Việt Nam.

Viện Dầu khí thời kỳ ở thị xã Hưng Yên có lẽ là những năm tháng gian khổ nhất nhưng cũng là thời kỳ niềm vui và hy vọng lớn lao nhất.

Nhà máy Lọc dầu Dung Quất - trung tâm ứng dụng công nghệ hóa dầu của Việt Nam

PV: Trong những bước đi đầu tiên ấy, theo ông, người cán bộ khoa học còn phải vượt qua những khó khăn gì ngoài vấn đề đầu tư cho nghiên cứu? Xin được nghe về một nhiệm vụ cụ thể?

TS Trương Đình Hợi: Trong bối cảnh như vậy, các cán bộ nghiên cứu của viện đã xây dựng chương trình “Tiến bộ khoa học kỹ thuật cấp Nhà nước (Chương trình 22.01). Trong chương trình có đề tài “Nghiên cứu sơ đồ công nghệ chế biến khí ngưng tụ của mỏ Tiền Hải - tỉnh Thái Bình” mà tôi được giao làm chủ nhiệm cùng 11 cán bộ khoa học khác là TS Trần Đức Hiệp, TS Trần Ngọc Côn, các kỹ sư Dương Hiền Lương, Vũ Văn Trọng, Nguyễn Tấn Hoa, Nguyễn Văn Chỉnh, Bùi Văn Bình, Phạm Văn Khang, Nguyễn Đình Định, Nguyễn Văn Huần, Lê Như Tiêu.

Khí Tiền Hải được khai thác chạy turbine phát điện năm 1981 - nhà máy nhiệt điện chạy khí đầu tiên của Việt Nam ở Thái Bình. Kèm theo khí còn thu được lượng condensat khoảng 2-3m3/ngày. Condensat có nhiệt độ sôi 35-250oC chưa thể sử dụng nếu như không chế biến. Phương án sử dụng để sản suất xăng ôtô thì lượng quá nhỏ, không ý nghĩa, nhóm nghiên cứu chọn phương án sản xuất các loại dung môi hữu cơ đặc dụng - ete dầu mỏ, dung môi cho công nghiệp chế biến cao su, dung môi cho sản xuất sơn. Khi ấy các sản phẩm này rất khan hiếm vì khó nhập khẩu. Ý tưởng là như vậy nhưng thực hiện để sản xuất được lại là vấn đề rất khó. Theo kỹ thuật chuyên môn đã tiến hành trong công nghiệp, muốn chưng cất loại nguyên liệu dễ cháy nổ như condensat thì vấn đề cấp nhiệt thường dùng là hơi nước quá nhiệt (hơi nước ở áp suất cao, có nhiệt độ sôi lớn hơn nhiệt độ sôi của condensat), hoặc dầu tải nhiệt, các lò đốt cho sản xuất quy mô công nghiệp… Trong hoàn cảnh ở Việt Nam lúc đó không thể đáp ứng đòi hỏi cơ bản này.

Vấn đề khoa học giải quyết việc này không có gì phức tạp nhưng thực tế lại làm những người thực hiện nhọc công suy nghĩ. Làm sao chưng cất được loại nguyên liệu dễ cháy nổ này với khối lượng chỉ khoảng 2-3 m3/ngày?! Đối với khối lượng lớn thì sẽ nghiên cứu dự án đầu tư, xây nhà máy, nhập công nghệ… nhưng lượng condensat nhỏ như vậy thì làm sao? Vấn đề là an toàn lao động, không được phép để xảy ra cháy nổ, gây tai nạn chết người. Vì lý do như vậy mà đã phải qua nhiều hội thảo, nhiều lần xét duyệt phương án... trong khi mỗi ngày lượng condensat cứ ra đều đều khiến nơi khai thác không còn chỗ chứa. Vấn đề xử lý khối lượng condensat này đã trở nên cấp bách. Lúc ấy, Thượng tá Trần Xanh, quyền Viện trưởng, ra lệnh cho nhóm nghiên cứu chúng tôi cứ triển khai thử nghiệm và “trình duyệt” sau. Từ đây một “nồi chưng cất” công suất 1m3/ngày ra đời (thiết bị thử nghiệm pilot). Hệ thống cấp nhiệt là một “bếp điện” 24kW, van an toàn là các quả cân treo, kiểm tra nhiệt độ bằng cách dùng nhiệt kế tiếp xúc, khi đạt nhiệt độ yêu cầu thì chiếc đèn pin bật sáng... kíp làm việc ngồi điều khiển từ xa 50m… Vấn đề nhóm nghiên cứu đặt ra là sao không xảy ra cháy, nếu lỡ có cháy thì thiệt hại phải ở mức tối thiểu và không có thương vong…

Ngày 26/2/1981, thiết bị pilot chưng cất lần đầu tiên đã thử nghiệm chưng cất và sau 21 lần chưng, cuộc thử nghiệm đã hoàn thành, các sản phẩm đạt chất lượng yêu cầu qua sự xác nhận của những cơ sở sử dụng và đã có những đánh giá tốt về chất lượng.

Năm 1982-1983, Viện Dầu khí đã sản xuất thành công được 300.000 lít dung môi các loại như ete dầu mỏ, dung môi pha cao su, dung môi pha sơn và dầu hỏa thắp đèn, cung cấp cho các cơ quan nghiên cứu và các nhà máy trong nước. Dầu hỏa được chia cho cán bộ, công nhân viên của viện, mang lại niềm vui nho nhỏ. Đề tài được nghiệm thu, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước tặng bằng khen và quyết định chứng nhận quyền tác giả. Qua thành công của một đề tài cụ thể mang tính thực tiễn cho thấy tinh thần dám nghĩ dám làm, đoàn kết vượt khó của một tập thể những người đi những bước đầu tiên trong công nghiệp dầu khí.

PV: Ông từng tham gia và chủ nhiệm nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, xin ông kể lại quá trình nghiên cứu thành công của một trong số những đề tài mà ông tâm đắc nhất, ý nghĩa của đề tài đó với ngành Dầu khí?

TS Trương Đình Hợi: Cái nghiệp của tôi là đánh giá chất lượng dầu, khí và các sản phẩm từ dầu khí, những năm “cân, đong, đo đếm...” ở phòng thí nghiệm đã cho tôi cảm hứng vì luôn trực tiếp đối diện với “vàng đen” của Tổ quốc đã được các nhà địa chất, khai thác lấy lên từ thâm sâu lòng đất.

Tôi luôn nghĩ, cần phải có một bộ tài liệu cơ bản làm cơ sở dữ liệu cho dầu thô từ các mỏ dầu Việt Nam, mang tên “tính chất dầu thô các mỏ dầu Việt Nam”.

Tôi được giao làm chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu phân loại dầu thô Việt Nam nhằm đề xuất phương hướng chế biến và sử dụng” thuộc chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước giai đoạn 1986-1990 (đề tài sau đó đã được Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước tặng bằng khen). Qua nghiên cứu đã xây dựng được quy trình và các mức độ phân tích cho các loại dầu phục vụ cho nghiên cứu, thương mại, một “HỆ THỐNG SỐ LIỆU CƠ SỞ TÍNH CHẤT DẦU THÔ VIỆT NAM” ra đời, đến nay đã có số liệu của 71 mẫu dầu thô, thể hiện trong 13 tập báo cáo với trên 1.300 trang tư liệu. Số mẫu dầu sẽ còn được tiếp nối mãi...

Các nhà khoa học trẻ của Viện Dầu khí Việt Nam

Tài liệu này giúp đánh giá chất lượng dầu thô, định hướng và quy hoạch phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, phục vụ mua bán dầu và cách sử dụng hiệu quả nguồn dầu mỏ. Hệ thống số liệu cơ sở tính chất dầu Việt Nam không những giúp các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu, sản xuất trong công nghiệp dầu khí mà còn rất cần cho các lĩnh vự khác có liên quan đến dầu khí. Điều quan trọng là cán bộ của ta đã làm chủ công nghệ, phân tích được toàn diện các mẫu dầu thô, cung cấp số liệu cho nghiên cứu dự án và thiết kế nhà máy lọc dầu (số liệu phục vụ thiết kế Nhà máy Lọc dầu Dung Quất). Các phòng thí nghiệm phân tích của Trung tâm Nghiên cứu & Phát triển chế biến dầu khí đã được cấp chứng chỉ Quốc tế ISO 9001-2000 và Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cấp chứng chỉ đạt chuẩn năng lực phòng thí nghiệm 17025.

PV: Ông nhìn nhận như thế nào về sự cần thiết của ứng dụng khoa học công nghệ mới trong một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn như ngành Dầu khí của chúng ta, thưa ông?

TS Trương Đình Hợi: Khoa học kỹ thuật thế giới đã có những bước tiến dài, đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ lọc hóa dầu đang phải vươn lên hết mức nhằm đáp ứng đòi hỏi chế biến dầu có hiệu quả hơn, yêu cầu sản phẩm chất lượng cao hơn, sạch hơn nhằm thỏa mãn đòi hỏi khắt khe của tiêu chuẩn về môi trường. Chính điều này khi nghiên cứu dự án phải áp dụng công nghệ mới hết sức tránh tư tưởng “cũ người, mới ta”, cảnh giác với sự tuồn các công nghệ cũ vào nước ta, tránh biến mình thành bãi rác.

PV: Ông đánh giá như thế nào về quan điểm và nhận thức của những thế hệ lãnh đạo ngành đối với với việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất? Việc đối xử, quan tâm, tạo điều kiện đối với cán bộ khoa học trong nghiên cứu ứng dụng?

TS Trương Đình Hợi: Những thế hệ lãnh đạo ngành Dầu khí là những người đầy nhiệt huyết, đã góp phần làm cho ngành Dầu khí phát triển như hiện nay, đưa Việt Nam thành nước sản xuất dầu thô xuất khẩu trên 15 triệu tấn một năm, nộp ngân sách Nhà nước khoảng 30%...

Điều tôi lấy làm tiếc là công nghiệp lọc hóa dầu phát triển chưa tương xứng. Biết bao thời gian mới cho ra được một Nhà máy Lọc dầu Dung quất. Nhưng muộn còn hơn không, qua đây đã cho ta những bài học quý giá để định hướng phát triển tiếp theo. Những quyết định của lãnh đạo chỉ có thể đúng đắn khi tôn trọng những luận cứ khoa học. Đối với nghiên cứu khoa học cần có những đầu tư cần thiết, nhất là đối với những vấn đề mới. Trong kinh tế người ta có thể chọn được phương án hiệu quả nhất, rẻ nhất… nhưng trong nghiên cứu khoa học là đi tìm cái mới, dò dẫm tìm cái chưa biết, phát triển tri thức để giải quyết một vấn đề chưa có một giải pháp sẵn. Lãnh đạo nên có cái nhìn như vậy đối với việc nghiên cứu khoa học.

PV: Vấn đề nhân lực công nghệ cao của ngành hiện nay dưới góc nhìn của ông? Ông có thể chia sẻ một vài ý tưởng về đào tạo nguồn?

TS Trương Đình Hợi: Tôi thấy một điều, theo tôi đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công của ngành Dầu khí của ta, là cán bộ chuyên môn được đào tạo bài bản ở những cái nôi dầu khí phát triển. Hầu hết cán bộ chủ chốt của ngành đều được học ở 2 nơi là Liên Xô cũ và Rumani. Sau đó hầu hết họ được đào tạo tiếp ở các nhà máy, các viện nghiên cứu, hay thực tập ở những tập đoàn dầu khí nước ngoài như Rumani, Sakhalin, Angeri, Viện Dầu mỏ Pháp (thời gian 2-3 năm). Mà học sau khi tốt nghiệp đại học hay thực tập phải có thời gian đủ dài để nắm bắt được công việc, không “cưỡi ngựa xem hoa” và thực tế chứng minh những người trước kia được đào tạo như vậy đã làm rất tốt những việc mình phụ trách. Hiện nay, ngành Dầu khí cũng cử học sinh ra nước ngoài nhưng so với trước kia vẫn thua về số lượng và chưa chú ý đào tạo tiếp những học sinh mới ra trường. Đào tạo nay thường chú ý đến các lớp ngắn ngày, nhiều là tham quan… không hiệu quả. Một chuyên gia thực sự cần phải tôi luyện trong môi trường thực tế trong thời gian đủ dài.

PV: Ông có lời gì muốn nhắn gửi tới thế hệ các nhà khoa khọc trẻ của Petrovietnam hôm nay, những kỳ vọng của thế hệ đàn anh đi trước?

TS Trương Đình Hợi: Thế hệ các nhà khoa học trẻ hiện nay có điểm xuất phát tốt, có nhiều điều kiện để thực hiện ước mơ, chỉ cần các bạn có tình yêu nghề, nhiệt huyết và luôn đam mê với công việc chắc chắn Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam sẽ lớn mạnh, ngang tầm khu vực và thế giới.

PV: Về gia đình, những gì mà người thân phải chấp nhận, phải vượt qua khi có chồng, có cha một đời với sự nghiệp đi tìm lửa cho Tổ quốc?

TS Trương Đình Hợi: Cũng như nhiều cán bộ trong ngành Dầu khí thường sống xa gia đình, việc con cái ở nhà do vợ đảm đương, bản thân được bếp ăn tập thể nuôi, phòng ở được miễn phí. Có những việc bình thường nhưng nhiều khi lại trở thành mong ước: “…Ước mơ có dịp vui đoàn tụ/ Dưới mái hiên nhà ngắm trăng thu…”.

PV: Xin cảm ơn tiến sĩ về cuộc trao đổi thú vị này!

Nguyễn Tiến Dũng(thực hiện)