Gỡ điểm nghẽn cơ chế, tạo dòng chảy vốn cho các dự án điện khí LNG
0:00 /
Chọn Giọng
  • Nữ Miền Bắc
  • Nam Miền Bắc
  • Nam Miền Nam
  • Nữ Miền Nam
Tại tọa đàm “Tìm lối mở cho điện sạch - Gỡ nút thắt chính sách, khơi thông năng lượng" do Báo Xây dựng tổ chức chiều 8/10, ông Nguyễn Duy Giang - Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PV Power) chia sẻ, để triển khai thành công các dự án điện khí LNG - nguồn điện đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch năng lượng, điều quan trọng nhất là phải tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, thủ tục đầu tư và thu xếp vốn. Nếu không có thay đổi mạnh mẽ, mục tiêu đạt hơn 20.000 MW điện khí LNG trước năm 2030 sẽ là một thách thức rất lớn.

Khuôn viên bên trong Nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và 4 (Ảnh: Nguyễn Hiển)

Cơ chế giá điện cần phản ánh đúng chi phí và rủi ro đầu tư

Vay vốn vẫn là “bài toán muôn thuở” đối với các doanh nghiệp năng lượng. Dù cơ chế của Nhà nước đã được điều chỉnh để hài hòa lợi ích giữa các bên, theo ông Nguyễn Duy Giang, các ngân hàng vẫn tỏ ra thận trọng do lo ngại rủi ro dòng tiền và khả năng trả nợ.

“Các cơ chế hiện nay cho điện khí LNG chưa đủ thuyết phục bên cho vay. Các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng quốc tế, khi đánh giá dự án đều thấy rủi ro, khiến quá trình đăng ký vay vốn kéo dài. Do đó, cần có hợp đồng mua bán điện (PPA) đủ điều kiện cho các dự án điện trọng điểm, đặc biệt là điện khí LNG - lĩnh vực có chi phí đầu tư lớn và chu kỳ hoàn vốn dài”, ông Giang kiến nghị.

Ông giải thích, trước đây, Nhà nước từng có cơ chế bảo lãnh, giúp nhà đầu tư và ngân hàng yên tâm hơn. Tuy nhiên, sau khi cơ chế bảo lãnh Nhà nước bị hạn chế từ năm 2017, các dự án điện LNG không thể vay quốc tế nếu không chứng minh được dòng tiền ổn định và khả năng trả nợ.

Theo Phó Tổng Giám đốc PV Power, trong cấu trúc giá điện hiện nay, phần lớn giá nguyên liệu được chuyển thẳng vào giá điện, trong khi phần còn lại là chi phí cố định để thu hồi vốn vay, trả lãi, vận hành và bảo dưỡng. Việc đàm phán PPA trước đây dựa trên quyết toán dự án, thì nay đã chuyển sang đăng ký trên tổng mức đầu tư, giúp ký được PPA sớm hơn.

Theo ông Giang, nếu không có khoản phí công suất đủ lớn, nhà đầu tư sẽ không thể đảm bảo khả năng trả nợ vay, đặc biệt trong bối cảnh giá nhiên liệu và tỷ giá biến động phức tạp. Phó Tổng Giám đốc PV Power kiến nghị cần quy định rõ thời gian đàm phán PPA, giới hạn trong 3-6 tháng, nhằm tránh kéo dài quá trình chuẩn bị, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai.

Phó Tổng Giám đốc PV Power Nguyễn Duy Giang: Các cơ chế hiện nay cho điện khí LNG chưa đủ thuyết phục bên cho vay. Các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng quốc tế, khi đánh giá dự án đều thấy rủi ro, khiến quá trình đăng ký vay vốn kéo dài. (Ảnh: Phương Thảo)

Thủ tục đầu tư vẫn là điểm nghẽn

Cũng theo ông Nguyễn Duy Giang, một trong những khó khăn lớn nhất là thủ tục chủ trương đầu tư kéo dài và trùng lặp, khiến tiến độ dự án bị chậm hàng năm trời. “Nhiều lần chúng tôi kiến nghị bỏ khâu "chủ trương đầu tư", bởi các dự án điện đã nằm trong quy hoạch điện quốc gia thì còn cần chủ trương gì nữa. Việc này mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến độ chuẩn bị đầu tư”, ông nói.

Thực tế, PV Power có dự án phải mất từ 3-4 năm để hoàn tất toàn bộ thủ tục đầu tư. Theo ông Giang, việc đề xuất Quốc hội bỏ yêu cầu về chủ trương đầu tư là bước tiến quan trọng, song vẫn cần sự phối hợp giữa các bộ, ngành để đảm bảo tinh thần cải cách được thực thi trên thực tế.

Một vấn đề khác là phân cấp trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương trong khâu lựa chọn chủ đầu tư dự án điện khí. Ông Giang dẫn chứng, các dự án tại Nghi Sơn (Thanh Hóa), Quỳnh Lập (Nghệ An), Cà Ná (Bình Thuận) đều đang gặp khó vì địa phương chưa lựa chọn được chủ đầu tư.

Không chỉ vốn, các dự án điện khí LNG còn đối mặt với thiếu hụt chuỗi cung ứng toàn cầu. Ông Giang cho biết, hiện nay các tập đoàn sản xuất thiết bị turbine khí lớn như Mitsubishi (Nhật Bản), GE (Mỹ), Siemens (Đức) đều đã kín đơn hàng đến năm 2028. Điều đó có nghĩa là nếu không đặt hàng sớm, Việt Nam gần như không thể kịp tiến độ trước năm 2030.

Trong khi đó, thị trường thiết bị toàn cầu đang chịu áp lực lớn từ các đơn hàng của Bắc Mỹ và Trung Đông, đặc biệt khi nhu cầu của các trung tâm dữ liệu (Big Data) và ngành công nghiệp bán dẫn tăng cao. Các nước này đang thu hút hầu hết nguồn cung thiết bị, khiến Việt Nam gặp bất lợi cả về giá và thời gian giao hàng.

Ông Nguyễn Duy Giang nhấn mạnh, Nhà nước đã nỗ lực điều chỉnh cơ chế theo hướng hài hòa lợi ích giữa các bên, nhưng thực tế vẫn là thách thức với các nhà đầu tư và tổ chức tài chính. Muốn đạt được mục tiêu phát triển điện khí LNG, cần một cơ chế linh hoạt hơn, chia sẻ rủi ro rõ ràng hơn, đặc biệt là trong hợp đồng mua bán điện và bảo đảm dòng tiền. Nếu không có những thay đổi thực chất, các mục tiêu trong Quy hoạch điện VIII - đặc biệt là hơn 20.000 MW điện LNG trước năm 2030, sẽ rất khó khả thi.

Phương Thảo