Tóm tắt
Bể
trầm tích Tư Chính - Vũng Mây có đặc điểm địa chất phức tạp, hoạt động
kiến tạo và núi lửa ảnh hưởng đến các quá trình lắng đọng trầm tích. Qua
việc phân tích, minh giải địa chấn địa tầng dựa trên quan điểm địa tầng
phân tập, kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cho phép xây dựng sơ đồ
phân bố, đặc điểm tướng và môi trường trầm tích Oligocene, Miocene dưới,
Miocene giữa và Miocene trên, có đối sánh với kết quả phân tích tài
liệu địa chất giếng khoan A. Kết quả nghiên cứu là tiền đề cho các
nghiên cứu đánh giá tiềm năng dầu khí bể Tư Chính - Vũng Mây.
Từ khóa: Địa chấn địa tầng, tướng địa chấn, tướng trầm tích, môi trường trầm tích, bể Tư Chính - Vũng Mây.
1. Mở đầu
Bể
Tư Chính - Vũng Mây là một trong những bể trầm tích nước sâu của Việt
Nam, với diện tích khoảng 90.000km2. Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí
tại khu vực Tư Chính - Vũng Mây được bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ
XX với một số đề tài/nhiệm vụ nghiên cứu về đặc điểm địa chất và tiềm
năng dầu khí. Tuy nhiên, do khối lượng khảo sát địa chấn tại bể Tư Chính
- Vũng Mây còn hạn chế, nên các vấn đề liên quan đến lịch sử phát triển
địa chất, đặc điểm trầm tích, môi trường thành tạo, hệ thống dầu khí
chưa được nghiên cứu đầy đủ; các vấn đề về phạm vi phân bố và đặc điểm
của đá mẹ, đá chứa, đá chắn, phân loại bẫy của bể cần được làm sáng tỏ.
Do
khu vực nghiên cứu chỉ có một giếng khoan A và chủ yếu phải sử dụng tài
liệu địa chấn 2D nên việc phân chia địa tầng không chỉ dựa vào các kết
quả về thạch địa tầng và sinh địa tầng của giếng khoan này mà phải đối
sánh và sử dụng những kết quả nghiên cứu địa tầng tại khu vực thuộc phía
Đông - Đông Bắc của bể Nam Côn Sơn và các vùng lân cận [1, 5, 6, 9, 13 -
15]. Để nghiên cứu tướng đá và môi trường trầm tích, nhóm tác giả đã
phân tích các đặc điểm tướng địa chấn, liên kết với kết quả phân tích
giếng khoan trong các trầm tích Oligocene, Miocene dưới, Miocene giữa,
Miocene trên phục vụ cho việc nghiên cứu đánh giá tiềm năng dầu khí
(Hình 1).
Các mặt cắt tướng và môi trường trầm tích đặc trưng
được xây dựng nhằm xác định thành phần vật chất, tính chất trầm tích,
môi trường thành tạo, thời gian thành tạo cho các giai đoạn khác nhau.
Kết quả đạt được trên cơ sở phân tích tài liệu giếng khoan A và liên kết
với kết quả phân tích tướng địa chấn theo tài liệu địa chấn 2D. Từ các
kết quả phân tích các mặt cắt môi trường trầm tích, với các tập trầm
tích Oligocene, Miocene dưới, Miocene giữa, Miocene trên và các bản đồ
đẳng dày, nhóm tác giả đã xây dựng các sơ đồ tướng và môi trường trầm
tích, từ đó cung cấp cái nhìn tổng quát về tiềm năng dầu khí của toàn
bể.
Nhóm tác giả đã tổng hợp kết quả nghiên cứu, phân tích mối
quan hệ giữa đặc điểm tướng trầm tích và đặc trưng trường sóng địa chấn
(Bảng 1), có thể áp dụng để nghiên cứu tướng, môi trường trầm tích theo
tài liệu địa chấn cho khu vực nghiên cứu nước sâu và có ít giếng khoan
[2 - 4, 7, 8, 10 - 12] .
2. Đặc điểm tướng và môi trường trầm tích bể Tư Chính - Vũng Mây
2.1. Đặc điểm tướng và môi trường trầm tích Oligocene
2.1.1. Đặc điểm tướng địa chấn
Trầm
tích Oligocene và cổ hơn tương ứng với tập địa chấn nằm giữa tầng phản
xạ nóc móng và tầng phản xạ nóc Oligocene. Chiều dày của tập này thay
đổi từ vài trăm mét đến trên 3.000m ở các Lô 131, 132, 153, 154 và Lô
155 - 157 hoặc ở các địa hào nhỏ xen kẹp giữa các khối nhô [2, 14, 15].
Đặc trưng địa chấn là các tập trầm tích song song, phân lớp tốt, độ liên
tục tốt, dạng phân lớp thấu kính đến phân kỳ có biên độ cao đến trung
bình tại những trũng, địa hào và bán địa hào (Hình 2 và 3). Tại các khu
vực khác, xung quanh các khối nhô, các đới hoạt động núi lửa, phần phía
Tây Nam khu vực nghiên cứu, phần xen kẽ giữa các trũng thì đặc trưng địa
chấn có biên độ trung bình, độ liên tục kém và phản xạ hỗn độn. Bề dày
của tập nghiên cứu phần phía Nam và Đông Nam dày nhưng đặc trưng phản xạ
hỗn độn, biên độ thay đổi từ yếu đến trung bình, độ liên tục kém, rất
khó xác định do ảnh hưởng của đứt gãy.


Quan
sát cho thấy biên độ của trầm tích này có xu hướng chung giảm dần từ
nóc xuống đáy, có thể do điều kiện trầm tích cổ của khu vực thuận lợi
cho các tích tụ vật liệu mịn và đặc trưng ở các địa hào, bán địa hào
Oligocene. Trầm tích này có thể chia ra làm 2 phần: (1) phần dưới
(Oligocene dưới) với đặc trưng biên độ phản xạ yếu, tính phân lớp kém,
phát triển trong các địa hào, bán địa hào tương ứng là tướng trầm tích
lục địa, đầm hồ đồng bằng delta với môi trường đồng bằng ven biển; (2)
phần trên (Oligocene trên) với đặc trưng biên độ cao, tính phân lớp song
song, phân kỳ, độ liên tục từ trung bình đến tốt tương ứng với tướng
trầm tích đồng bằng châu thổ ven biển, trầm tích đầm hồ, hoặc chủ yếu là
tướng trầm tích biển nông ven bờ, biển nông. Môi trường trầm tích chính
là biển nông ở phần phía Đông và một phần trên các trũng kế thừa ở phía
Bắc và Nam khu vực nghiên cứu. Tóm lại, theo thời gian và không gian
của mặt cắt trầm tích Oligocene có sự chuyển tướng theo quy luật từ
tướng trầm tích lục địa, sông hồ, đồng bằng ven biển sang tướng trầm
tích biển nông ven bờ, biển nông với môi trường trầm tích là biển nông
(Hình 5 và 6).
2.1.2. Đặc điểm tướng trầm tích
Theo
kết quả giếng khoan A, hệ tầng được phát hiện tại độ sâu 2.350 - 2.770m
mang tên bãi đảo Vũng Mây. Trầm tích của hệ tầng này phủ trực tiếp trên
các thành tạo phun trào, phần dưới cùng của lát cắt là tập cuội kết cơ
sở dày vài mét (gồm cuội granite, granodiorite, ít rhyolite,
andesite..). Chuyển tiếp lên trên là các trầm tích hạt mịn có màu xám,
xám tro, đá sét bột kết dạng phiến xen ít cát kết dạng quarzite hạt nhỏ,
các lớp mỏng sét than. Cát kết của hệ tầng có độ lựa chọn, mài tròn tốt
với thành phần thạch anh (25 - 50%), felspath (10 - 25%), mảnh đá (5 -
20% đá silica, quarzite, phun trào, carbonate, phiến sét) (Hình 4).
Các
trầm tích của hệ tầng thành tạo trong điều kiện năng lượng thấp thuộc
tướng sông, châu thổ, đầm hồ và phần trên có chịu ảnh hưởng của môi
trường biển. Bề dày trầm tích của hệ tầng thay đổi từ 380 - 1.000m. Tại
các trũng sâu (Vũng Mây, Phúc Nguyên...) bề dày trầm tích Paleogene (chủ
yếu là Oligocene) theo tài liệu địa vật lý có thể đạt tới trên 2.000m.
Các
trầm tích phiến sét, phiến sét chứa than màu đen, xám đen ở giếng khoan
A được coi là có khả năng sinh (chủ yếu sinh khí) với chất lượng kém.
Tuy nhiên, có thể hy vọng sự tồn tại và có mặt các đá sét kết, sét than
tướng đầm hồ và châu thổ ven biển có bề dày lớn hơn phân bố tại các
trũng sâu, với điều kiện địa chất thuận lợi, chắc chắn sẽ có khả năng
sinh dầu khí tốt hơn.
Sơ đồ tướng và môi trường trầm tích
Oligocene cho thấy khu vực phía Tây chủ yếu là trầm tích lục địa, đồng
bằng delta môi trường lục địa. Tướng ở phần trung tâm của bể trầm tích
đồng bằng delta, sông hồ với môi trường chuyển tiếp, đầm hồ chuyển sang
môi trường biển nông, phía Bắc và phần Đông Nam trầm tích có tướng đồng
bằng ven biển, đồng bằng delta dưới với môi trường biển nông trên Hình
6.
2.2. Đặc điểm tướng và môi trường trầm tích Miocen dưới
2.2.1. Đặc điểm tướng địa chấn
Trầm
tích Miocene dưới là tập nằm giữa tầng phản xạ nóc Oligocene và nóc
Miocene dưới, bề dày tập này thay đổi lớn từ vài trăm mét trong phần
phía Đông của vùng nghiên cứu, một phần trên khối nhô phía Đông của Lô
135, 136 và phần khối nhô của Lô 131,
132 đến 1.500m hoặc hơn 2.500m ở phần trũng ở Lô 156 - 158, phần phía
Nam của Lô 159, 160 và phần rìa phía Tây của khu vực nghiên cứu [2, 14,
15].



Đặc trưng địa chấn là các tập trầm tích song song, phân lớp
rõ, độ liên tục tốt, biên độ mạnh, đặc biệt tại các trũng và phần gần
các khối nhô hoặc đứt gãy tại khu vực nghiên cứu. Với các đặc trưng này
cho thấy tướng trầm tích biển. Đặc biệt, tồn tại các ranh giới phản xạ
nằm ngang ở giữa tập, có các tập nhỏ với biên độ lớn và độ lien tục tốt,
có lẽ liên quan tới đới phát triển của các lớp đá vôi dạng địa phương
và có thể là các tập than thể hiện tướng biển nông ven bờ, biển nông
(?). Phần trên và phần đáy của tập này đặc trưng địa chấn có độ liên tục
trung bình, phân lớp á song song tới phân kỳ tại các sườn cấu tạo, biên
độ thấp đến rất thấp, chịu ảnh hưởng của mạnh của các hệ thống đứt gãy,
biến thiên biên độ ngang trên khoảng cách lớn. Trầm tích gần nguồn vật
liệu, đặc trưng cho tướng biển ven bờ có thể đầm hồ và biển nông tương
ứng với môi trường là biển nông, biển thể hiện trên Hình 7 và 8.
2.2.2. Đặc điểm tướng trầm tích
Theo
kết quả giếng khoan A, trầm tích của hệ tầng bao gồm nhiều cát kết, bột
kết và sét kết, xen ít lớp sét vôi đá vôi hoặc đá vôi dolomite. Cát kết
màu xám, xám đen gắn kết bởi carbonate và sét hạt nhỏ đến mịn, độ lựa
chọn tốt, mài tròn tốt. Hầu hết cát kết thuộc nhóm lithic arkose với
thành phần chủ yếu thạch anh (25 - 35%), felspath (20 - 40%), mảnh đá (5
- 15%) và ít mảnh vụn sinh vật.
Trầm tích của hệ tầng được hình
thành trong điều kiện đồng bằng châu thổ ven biển (phần dưới) chuyển
tiếp lên biển ven bờ, biển nông (phần trên) với bề dày thay đổi từ 250 -
600m (Hình 9), mặt cắt môi trường trầm tích được xây dựng Hình 10.
Trên
sơ đồ tướng và môi trường trầm tích tập Miocene dưới (Hình 11) khu vực
phía Tây đặc trưng tướng đồng bằng ven biển, biển nông môi trường biển
nông phát triển đá vôi ở khu vực nước nông. Phần còn lại có tướng biển
với môi trường biển nông chuyển sang biển sâu, một phần phía đông ở khu
vực nước nông có thể phát triển các đới carbonate thềm với môi trường
biển sâu trên.
2.3. Đặc điểm tướng và môi trường trầm tích Miocene giữa
2.3.1. Đặc điểm tướng địa chấn
Tập
trầm tích Miocene giữa nằm giữa tầng phản xạ Miocene dưới và Miocene
giữa, chiều dày không lớn (khoảng vài chục mét đến khoảng 1.500m), phân
bố đều trên toàn vùng nghiên cứu [2, 14, 15]. Đặc trưng địa chấn biên độ
thấp đến trung bình, biện độ
giảm dần từ
dưới lên trên, độ liên tục từ kém tới trung bình, phân lớp phân kỳ, kè
áp đáy các phản xạ á song song, trường sóng thô, đứt đoạn phân lớp phân
kỳ và hỗn độn ở phần trên của tập liên quan đến hoạt động bào mòn cắt
cụt, một vài vùng đặc trưng là các phản xạ trắng thay đổi mạnh theo
diện ngang và có sự thay đổi biên độ theo chiều sâu, ảnh hưởng mạnh mẽ
của các đứt gãy và núi lửa vì các hoạt động đứt gãy hầu hết kết thúc
trong tập này. Đặc trưng tướng trầm tích gần bờ, trầm tích gần nguồn vật
liệu trong môi trường biển, các mặt cắt thể hiện đặc trưng trên Hình 12
và 13.


Phần
dưới của tập biên độ tương đối mạnh, phân lớp song song, độ liên tục
tốt xuất hiện các tín hiệu gá đáy kế thừa trên tập Miocene dưới. Với các
đặc trưng về trường sóng địa chấn và kết quả phân tích từ giếng khoan A
có thể dự đoán tướng và môi trường trầm tích cho tập Miocene giữa là
đồng bằng ven biển, môi trường biển đến biển sâu, trầm tích gần nguồn
các đá carbonate phát triển trên các đới nước nông phân bố tương đối phổ
biến trong khu vực hình thành trong với môi
trường biển đến biển sâu.
2.3.2. Đặc điểm tướng trầm tích
Hệ
tầng đặc trưng bởi trầm tích lục nguyên cát kết màu xám, hạt nhỏ tới
mịn, độ lựa chọn tốt, mài tròn tốt, gắn kết chắc bởi xi măng carbonate
và sét, xen kẽ bột kết và sét kết đôi khi sét vôi hoặc cát kết vôi (Hình
14). Đá vôi ám tiêu và đá vôi dạng nền xen kẽ nhau. Carbonate có khả
năng chứa tốt do sự xuất hiện nhiều của các
lỗ rỗng ở giữa và bên trong tinh thể, các hang hốc/vi hang hốc.
Tại
các đới nâng trầm tích chủ yếu là các đá carbonate được hình thành
trong điều kiện biển nông ven bờ, chiều dày thay đổi từ 300 - 750m. Ở
những trũng sâu như Vũng Mây và Phúc Nguyên, không loại trừ khả năng có
sự tồn tại các tập trầm
tích lục nguyên bao gồm đá sét, bột kết, cát kết, sét vôi và đá vôi dạng thềm.
Các
đá carbonate của hệ tầng có độ rỗng, độ thấm tốt đến rất tốt và được
coi là tầng chứa có chất lượng tốt tương tự như đá carbonate hệ tầng
Thông - Mãng Cầu chứa khí có giá trị thương mại đã phát hiện được ở mỏ
Lan Tây bể Nam Côn Sơn.
Hình 15 thể hiện sơ đồ tướng và môi
trường trầm tích Miocene giữa cho khu vực bể Tư Chính - Vũng Mây. Trong
giai đoạn này trầm tích chủ yếu là tướng biển
nông ở phần phía Tây
Bắc, còn lại là các trầm tích môi trường biển sâu. Trong khu vực các đới
nước nông phân bố ở phần trung tâm và phía Nam trong Miocene giữa
và phát triển các khối carbonate môi trường biển sâu.
2.4. Đặc điểm tướng và môi trường trầm tích Miocen trên
2.4.1. Đặc điểm tướng địa chấn
Trầm
tích Miocene trên là tập nằm giữa tầng phản xạ Miocene giữa và Miocene
trên, chiều dày của tập mỏng, một số vùng có thể vắng mặt như vùng nhô
cao
ở phía Đông Bắc của khu vực nghiên cứu, và mỏng dần ở các khối nhô liên
quan đến các hoạt động kiến tạo núi lửa. Chiều dày thay đổi lớn cho
toàn khu vực nghiên cứu, khoảng vài mét đến hàng trăm mét trên hầu hết
toàn bộ vùng nghiên cứu. Nhưng có nơi chiều dày có thể lên tới hơn
3.000m như ở khu vực trung tâm
Lô 158; phần Đông Nam của Lô 135,136; một phần Đông Tây của Lô 159; phía Tây Lô 160 [2, 14, 15].
Đặc
trưng địa chấn là các tập trầm tích phân lớp song song, á song, biên độ
trung bình đến khá và thay đổi mạnh dần từ dưới lên trên, độ liên tục
tương đối tốt,
tính phân nhịp của các trầm tích thể hiện qua sự thay
đổi pha địa chấn một số vùng thậm chí trong suốt, tần số trung bình đến
cao ở hầu hết khu vực nghiên cứu
(Lô 130 - 136, một phần Lô 154 -
156, Lô 157 - 160), đây có thể là tập sét hoặc bột sét hạt mịn hình
thành trong môi trường biển sâu. Phần còn lại ở phía Đông
khu vực
nghiên cứu đặc trưng là các tập phản xạ hỗn độn không phân lớp, xiên
chéo, biên độ trung bình đến cao có thể là các tập cát hoặc cát kết xen
kẽ, lien quan đến khu vực gần nguồn vật liệu hoặc nguồn vật liệu kế thừa
từ các hoạt động núi lửa.
Nhìn chung, tập địa chấn này không
chịu ảnh hưởng của các hoạt động đứt gãy trên toàn khu vực nghiên cứu.
Với đặc điểm về địa chấn như trên có thể dự đoán trầm tích gần nguồn,
sàng lọc tốt trong giai đoạn băng hà với đặc trưng bột sét là tướng biển
trong môi trường trầm tích chủ yếu là biển sâu với sự phát triển của
carbonate trên các đới nước nông môi trường biển sâu (Hình 16 và 17).
2.4.2. Đặc điểm tướng trầm tích
Trầm tích của hệ tầng được đặc trưng bởi sự có mặt đá carbonate màu trắng, trắng phớt xám, dạng khối,
rắn chắc bao gồm đá vôi ám tiêu, dạng ám tiêu (Hình 18), đá vôi chứa
sinh vật và đá vôi dạng nền thuộc các nhóm đá packston, wackeston và
mudston. Các khung xương sinh vật chiếm từ 15 - 90% (trung bình 35 -
50%) khác nhau nhiều về kích thước, phong phú về giống loài gồm các dạng
san hô, tảo đỏ, tảo lục.


Bề dày các trầm tích carbonate của hệ
tầng thay đổi từ 400 - 900m và được coi là các đối tượng có khả năng
chứa rất tốt với sự có mặt nhiều các lỗ rỗng hang hốc/ vi hang hốc
được hình thành do sự hòa tan, rửa lũa các khoáng của sinh vật và quá
trình dolomite hóa làm co ngót thể tích. Ngoài ra, ở các trũng sâu chủ
yếu là sét với môi trường biển đến biển sâu cũng là tầng chắn tốt.
Hình
19 thể hiện sơ đồ tướng và môi trường trầm tích Miocene trên cho khu
vực bể Tư Chính - Vũng Mây. Trong giai đoạn này trầm tích chủ yếu là
tướng biển nông ở
phần phía Tây Bắc, còn lại là các trầm tích môi
trường biển sâu. Khu vực các đới nước nông phân bố phía Tây phát triển
các khối carbonate môi trường biển sâu.
3. Kết luận
Kết
quả phân tích đặc điểm tướng địa chấn kết hợp tài liệu giếng khoan A đã
xác định và xây dựng được các sơ đồ phân bố đặc điểm tướng, môi trường
trầm tích bể Tư Chính - Vũng Mây với các đặc trưng sau:
- Bể Tư Chính
- Vũng Mây cũng như các bể khác trên rìa Tây Thái Bình Dương đã trải
qua các giai đoạn tách giãn, sụt lún nhiệt và được lấp đầy bởi các thành
tạo có
nguồn gốc và môi trường khác nhau:
- Trong giai đoạn
Oligocene phía Tây của bể phân bố tướng trầm tích lục địa, đồng bằng
châu thổ và đầm hồ còn ở phía Đông là tướng trầm tích biển nông.
- Trong giai đoạn Miocene sớm, hầu hết diện tích của bể được lấp đầy bởi trầm tích biển ven bờ và biển nông.
- Còn trong giai đoạn từ Miocene giữa đến Pliocene - Đệ Tứ chủ yếu là tướng trầm tích biển và biển sâu.
Tài liệu tham khảo
1.
Lê Đức Công, Mai Thanh Tân, Nguyễn Trọng Tín. Minh giải tài liệu địa
chấn 2D khu vực Tư Chính - Vũng Mây theo phương pháp địa chấn địa tầng.
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất. 2011; 34: trang 14 - 18.
2.
Lê Đức Công, Nguyễn Trọng Tín, Trịnh Xuân Cường, Nguyễn Hữu Quỳnh,
Nguyễn Đăng Hoàng. Đặc điểm cấu trúc địa chất khu vực bể Tư Chính - Vũng
Mây dựa trên kết quả minh giải tài liệu địa chấn. Tạp chí Dầu khí.
2012; 5: trang 24 - 30.
3. Lê Đức Công, Nguyễn Trọng Tín. Đặc
điểm địa chất, phân vùng cấu trúc khu vực bể Tư Chính - Vũng Mây. Tuyển
tập Hội nghị Khoa học lần thứ 20 Đại học Mỏ - Địa chất. Tạp chí Khoa học
Mỏ - Địa chất. 2012: trang 3 - 11.
4. Mai Thanh Tân. Thăm dò địa chấn trong địa chất dầu khí. Nhà xuất bản Giao thông Vận tải. 2007: 239 trang.
5.
Ngô Xuân Vinh. Địa chất và tiềm năng dầu khí khu vực đới nâng Tư Chính,
Tây Nam quần đảo Trường Sa trên cơ sở nghiên cứu giếng khoan PV-942X.
Tạp chí Dầu khí. 2000; 4 + 5: trang 2 - 14.
6. Nguyễn Trọng Tín,
Lê Đức Công và nnk. Địa chất dầu khí các bể trầm tích Kainozoi ở vùng
biển Việt nam. Tuyển tập Hội nghị Khoa học và Công nghệ biển toàn quốc
lần thứ 5. Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 2011: trang 178 -
188.
7. L.F.Brown, W.L.Fisher. Seismic stratigraphy
interpretation of depositional systems: Examples from Brazilian rift and
pull-apart basins. Seismic Stratigraphy -
Applications to Hydrocarbon Exploration, AAPG Memoir. 1977; 26: p. 213 - 248.
8.
B.U.Haq, J.Hardenbol, P.R.Vail. Mesozoic and Cenozoic
chronostratigraphy and cycles of sea level change. Sea-Level Changes.
1988; 42: p. 71 - 108.
9. Mai Thanh Tan. Seismic stratigraphic
studies of the continental shelf of Southern Vietnam. Journal of
Petroleum Geology. 1995; 18(3): p. 345 - 354.
10. R.M.Mitchum
Jr., P.R.Vail. Seismic stratigraphy and global changes of sea level:
Part 7 - Seismic stratigraphic interpretation procedure. Seismic
Stratigraphy -
Applications to Hydrocarbon Exploration. AAPG Memoir. 1977; 26, p.135 - 143.
11.
R.M.Mitchum Jr., P.R.Vail, S.Thomson III. Seismic stratigraphy and
global changes of sea level: Part 2 – The depositional sequences as a
unit for stratigraphic analysis: Section 2 - Application of seismic
reflection configuration to stratigraphic interpretation. Seismic
Stratigraphy - Applications to Hydrocarbon Exploration. AAPG Memoir.
1977; 26, p. 53 - 62.
12. R.M.Mitchum Jr., P.R.Vail, J.B.Sangree.
Seismic stratigraphy and global changes of sea level: Part 6 -
Stratigraphic interpretation of seismic reflection patterns in
depositional sequences: Section 2 - Application of seismic reflection
configuration to stratigraphic interpretation. Seismic Stratigraphy -
Applications to Hydrocarbon Exploration. AAPG Memoir. 1977; 26, p.117 -
133.
13. Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP). Báo cáo tổng kết địa chất giếng khoan PV-94-2X cấu tạo Tư Chính. 1/1995.
14.
Nguyễn Trọng Tín và nnk. Nghiên cứu cấu trúc địa chất và đánh giá tiềm
năng dầu khí các khu vực Trường Sa và Tư Chính - Vũng Mây”. Đề tài khoa
học cấp Nhà nước KC.09.25/06-10. Viện Dầu khí Việt Nam. 2011.
15.
Trịnh Xuân Cường và nnk. Tiềm năng dầu khí khu vực Tư Chính - Vũng Mây -
Trường Sa. Dự án “Đánh giá tiềm năng dầu khí trên vùng biển và thềm lục
địa Việt Nam” (thuộc “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài
nguyên môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”). Viện Dầu
khí Việt Nam. 2012.
Characteristics of facies and depositional environment of Tu Chinh - Vung May basin by the results of seismic data analysis
Le Duc Cong1, Mai Thanh Tan
Nguyen Trong Tin, Van Thi Thom
Petrovietnam Exploration Production Corporation
University of Mining and Geology
Vietnam Association of Petroleum Geology
Summary
Tu
Chinh - Vung May is a sedimentary basin characterised by complex
geology and tectonic and volcanic pro-cesses affecting sedimentation.
Through the analysis and interpretation of seismic stratigraphy based on
sequence stratigraphy, the results of the study conducted by the
authors allow distribution diagrams, characteristics of facies and
depositional environment of Oligocene, lower Miocene, middle Miocene and
upper Miocene periods to be con-structed and matched with the results
of A well’s geological materials. The results of this study are the
premise for further studies to assess the oil and gas potential of Tu
Chinh - Vung May basin.
Key words: Seismic stratigraphy, seismic facies, sediment facies, sedimentary environment, Tu Chinh - Vung May basin.