Sau gần một thập kỷ tạm dừng chương trình điện hạt nhân, Việt Nam vẫn âm thầm giữa lửa đội ngũ cán bộ, chuyên gia được đào tạo bài bản trong và ngoài nước. Trong bối cảnh Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định điện hạt nhân là hướng đi chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn, việc chuẩn bị và phát triển nguồn nhân lực hạt nhân đang trở thành yêu cầu cấp bách.
Từ tầm nhìn của Bác Hồ đến nền móng cho một ngành chiến lược.
Sau hơn nửa thế kỷ kể từ chuyến thăm lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Nhà máy điện nguyên tử Obninsk (Liên Xô) năm 1955 - nơi khởi nguồn cho ý tưởng phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam, đến nay, vấn đề nhân lực hạt nhân một lần nữa trở thành tâm điểm, trong bối cảnh điện hạt nhân được xem là định hướng chiến lược trong giai đoạn tới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ông D.I. Blokhintsev (ngoài cùng bên phải) - người thiết kế và xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Obsnink và ông E. P Slavsky - Bộ trưởng Bộ Chế tạo máy cỡ trung bình Liên Xô (đội mũ trắng) (Nguồn: Rosatom)
Từ năm 1955, Việt Nam đã bắt đầu gửi cán bộ sang Liên Xô (nay là Liên bang Nga) học tập trong lĩnh vực vật lý hạt nhân và điện hạt nhân, chủ yếu tại Trường Năng lượng Moscow. Trong suốt thập niên 1960-1970, một đội ngũ khoa học - kỹ thuật trình độ cao được hình thành, đặt nền móng cho ngành năng lượng nguyên tử non trẻ.
Từ đầu những năm 1990, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) phối hợp cùng Bộ Công Thương đã tiến hành nghiên cứu, tìm kiếm địa điểm tiềm năng để xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Giai đoạn 1996-2002, công tác khảo sát được thực hiện tại nhiều vùng miền Trung - Nam Bộ. Đến năm 2009, Quốc hội chính thức phê duyệt chủ trương đầu tư hai nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, mở ra giai đoạn chuẩn bị quy mô lớn nhất trong lịch sử ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Trong giai đoạn 2010-2016, các nghiên cứu khả thi (FS) và đánh giá địa điểm được tiến hành bài bản, song song với công tác quy hoạch bổ sung 6 địa điểm tiềm năng khác. Cũng trong thời gian này, Việt Nam bắt đầu triển khai chương trình đào tạo nhân lực quy mô lớn cho điện hạt nhân - được đánh giá là “đi trước một bước” về chiến lược nhân lực. Tuy nhiên sau đó, các dự án bị tạm dừng vào năm 2016.
Đào tạo bài bản nhưng thiếu liên tục.
Đã có hơn 400 sinh viên Việt Nam được cử sang Nga theo học chuyên ngành điện hạt nhân, cùng gần 30 cán bộ kỹ thuật của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được đào tạo chuyên sâu tại Nhật Bản. Đây là lực lượng được kỳ vọng giữ vai trò nòng cốt trong các nhà máy điện hạt nhân tương lai tại Ninh Thuận.
Tuy nhiên, khi dự án bị tạm dừng, phần lớn nhân lực trẻ được đào tạo chuyên biệt này đã phải chuyển sang làm việc trong các lĩnh vực khác. Số ít cán bộ vẫn tiếp tục duy trì nghiên cứu tại VINATOM hoặc một số cơ sở đào tạo như Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Điện lực, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội).
Theo nhận định của Viện Năng lượng nguyên tử, hiện nay, Việt Nam vẫn còn một lực lượng cán bộ được đào tạo bài bản về điện hạt nhân, nhưng nếu không có chính sách tái đào tạo, bồi dưỡng và duy trì năng lực, nguồn nhân lực này sẽ dần “mai một”. Điều đó đồng nghĩa với việc khi chương trình điện hạt nhân được khởi động lại, Việt Nam sẽ gần như phải bắt đầu lại từ đầu.
TS. Hoàng Sỹ Thân: Việt Nam cần sớm có các chính sách kịp thời nhằm thúc đẩy các chương trình đào tạo, nghiên cứu về điện hạt nhân. (Ảnh: Phương Thảo)
TS. Hoàng Sỹ Thân, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho rằng: Một chương trình điện hạt nhân bền vững không thể khởi động nếu thiếu nền tảng nhân lực. Chúng ta cần duy trì đào tạo định kỳ, kết nối chặt chẽ giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp năng lượng, song song với việc từng bước hình thành khung pháp lý và thể chế quản trị phù hợp.
Trong bối cảnh đó, việc giữ gìn, củng cố và phát triển nhân lực hạt nhân không chỉ là chuyện “giữ người” mà còn là chiến lược bảo vệ tri thức quốc gia. Việt Nam cần sớm có các chính sách kịp thời nhằm thúc đẩy các chương trình đào tạo, nghiên cứu về điện hạt nhân, đảm bảo bắt kịp lợi thế cạnh tranh trong chuỗi phát triển năng lượng hiện đại, an toàn và phát thải thấp.
Bức tranh điện hạt nhân thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tại châu Á, Trung Quốc đang dẫn đầu với kế hoạch đến năm 2030 có khoảng 100 lò phản ứng vận hành và con số này dự kiến tăng lên 270 lò vào năm 2050; Ấn Độ tiếp tục mở rộng chương trình hạt nhân dân sự; Bangladesh đang xây dựng hai lò VVER-1200 hợp tác với Nga; trong khi Philippines và Indonesia đã ký kết thỏa thuận với Hoa Kỳ về phát triển năng lượng hạt nhân.
Đáng chú ý, nhiều nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc hiện vận hành ngay sát biên giới Việt Nam như Phòng Thành, Xương Giang, Trường Giang - với tổng cộng 8 lò phản ứng đang hoạt động. Điều đó cho thấy, việc duy trì đội ngũ chuyên gia có kiến thức và khả năng phân tích, ứng phó với các sự cố hạt nhân xuyên biên giới là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm an ninh năng lượng và an toàn quốc gia, bên cạnh phục vụ mục tiêu phát triển công nghiệp điện hạt nhân trong tương lai.
Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh: “Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường”. Trong đó, điện hạt nhân được xác định là nguồn năng lượng chiến lược trong trung và dài hạn, nhằm đảm bảo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Theo đó, công tác chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên sâu trong lĩnh vực hạt nhân phải được xem là một phần không thể tách rời của chiến lược an ninh năng lượng. Việc này không chỉ nhằm sẵn sàng tái khởi động dự án điện hạt nhân, mà còn nâng cao năng lực giám sát, quản lý an toàn bức xạ, xử lý sự cố và nghiên cứu ứng dụng công nghệ hạt nhân trong y tế, nông nghiệp, công nghiệp và môi trường.
Hoạt động nghiên cứu hoạt nhân được duy trì tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Ảnh: Báo Nhân Dân)
Đề xuất tái cấu trúc đào tạo và hợp tác quốc tế phát triển nguồn nhân lực hạt nhân
Trong điều kiện hiện nay, nhiều chuyên gia đề xuất xây dựng lại hệ thống đào tạo hạt nhân theo mô hình mở - kết hợp giữa đào tạo đại học, nghiên cứu sau đại học và các chương trình thực tập tại các quốc gia có công nghệ hạt nhân tiên tiến. Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng mối quan hệ hợp tác với Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ để triển khai chương trình trao đổi học thuật - kỹ thuật song phương, nhằm duy trì năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ trẻ.
Một hướng đi khác là xây dựng trung tâm nghiên cứu và đào tạo hạt nhân quốc gia, quy mô tầm khu vực, kết hợp giữa VINATOM, các doanh nghiệp và các trường đại học kỹ thuật. Trung tâm này đảm nhiệm nhiệm vụ bồi dưỡng kỹ sư, vận hành mô phỏng, đào tạo an toàn và đánh giá công nghệ, hướng tới tự chủ tri thức và nhân lực hạt nhân.
Song song với đó, cần cơ chế chính sách đãi ngộ và lộ trình nghề nghiệp rõ ràng cho đội ngũ cán bộ hạt nhân, tránh tình trạng “chảy máu chất xám”. Nhân lực hạt nhân không thể đào tạo trong "ngày một, ngày hai", việc giữ chân và tạo động lực cho lực lượng này là nhiệm vụ mang tính chiến lược của quốc gia.
Kinh nghiệm của các quốc gia như Mỹ, Nga, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy, phát triển điện hạt nhân luôn song hành với bước nhảy vọt của khoa học - công nghệ và công nghiệp nền tảng. Với Việt Nam - một quốc gia đang phát triển, dân số hơn 100 triệu người, với nhu cầu năng lượng tăng nhanh và cam kết giảm phát thải mạnh mẽ, điện hạt nhân không chỉ là một lựa chọn năng lượng, mà còn là công cụ nâng tầm công nghệ quốc gia.
TS Nguyễn Đăng Toản, Trưởng khoa Năng lượng mới - Trường Đại học Điện lực nhận định, khó khăn lớn nhất trong phát triển điện hạt nhân là nguồn nhân lực, về cả người học và người dạy, công nghệ, cơ sở thí nghiệm cần chi phí lớn. Do đó, ông nhấn mạnh rằng, rất cần các doanh nghiệp liên kết, hợp tác đầu tư, “đỡ đầu” cho quá trình đào tạo để tạo nền tảng vững chắc cho các dự án điện hạt nhân trong nước. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực hạt nhân để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành.
Điện hạt nhân không chỉ là câu chuyện của năng lượng, mà còn là câu chuyện của tri thức. Giữ được đội ngũ chuyên gia, kỹ sư hạt nhân - tức là giữ được nền tảng tri thức quốc gia trong lĩnh vực năng lượng hiện đại. Theo tinh thần Nghị quyết 70, việc đầu tư cho nhân lực hạt nhân hôm nay chính là đầu tư cho tương lai an ninh năng lượng và năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong nhiều thập kỷ tới.
Ngày 26/5/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký ban hành Quyết định số 1012/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035".
Đề án đặt mục tiêu đến năm 2030 đào tạo, bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực cơ bản đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, vận hành và an toàn của các nhà máy điện hạt nhân, tiến tới làm chủ công nghệ và phát triển bền vững năng lượng hạt nhân vì mục tiêu an ninh năng lượng quốc gia.
Cụ thể, đối với Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, tổng nhu cầu nhân lực dự kiến khoảng 1.920 người, trong đó có 1.020 người đạt trình độ đại học (kỹ sư, cử nhân), 900 người đạt trình độ cao đẳng. Đáng chú ý, trong số nhân lực trình độ đại học, có khoảng 320 người được đào tạo ở nước ngoài.
Với Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2, tổng số nhân lực cần thiết là khoảng 1.980 người, bao gồm 1.050 người có trình độ đại học và sau đại học, 930 người trình độ cao đẳng. Trong đó, khoảng 350 người có trình độ đại học và sau đại học sẽ được cử đi đào tạo ở nước ngoài.
|
Phương Thảo