Sửa đổi Luật Thuế Giá trị gia tăng: Cấp bách và cần thiết

Kỳ V: PGS. TS Ngô Trí Long: Cần phải đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT
Trao đổi với PV, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, cần thiết phải đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) để tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, sòng phẳng giữa các nhà sản xuất trong nước với phân bón nhập khẩu. Từ đó, mang lại lợi ích thiết thực cho ngành nông nghiệp, cho người nông dân và doanh nghiệp.

Với mong muốn giúp nông dân có thể tiếp cận được nguồn phân bón giá rẻ, chất lượng, Luật số 71/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 đã quy định mặt hàng phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tuy nhiên, do phân bón là mặt hàng không tính thuế nên không được khấu trừ các chi phí GTGT đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Điều này ảnh hưởng đến doanh nghiệp và nông dân như thế nào? PV đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế về việc này.


PGS.TS Ngô Trí Long ( Ảnh: Mạnh Tưởng)

PV: Luật thuế 71/2014/QH13 quy định phân bón không chịu thuế GTGT. Quy định này, có ảnh hưởng như thế nào đến doanh nghiệp và nông dân, thưa ông?

PGS.TS Ngô Trí Long: Mục đích ban đầu của quy định này là ưu đãi của Nhà nước đối với ngành phân bón, qua đó hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua thực tế, chính sách này lại làm cho doanh nghiệp sản xuất phân bón chịu thêm nhiều sức ép và hoàn toàn không có tác dụng khuyến khích đầu tư công nghệ mới trong sản xuất, có nguy cơ đẩy ngành sản xuất phân bón Việt Nam “đi thụt lùi”, ngược xu thế.

Theo Luật Thuế GTGT hiện hành quy định phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, tàu đánh bắt xa bờ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Với quy định này, doanh nghiệp phân bón sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước không được hoàn thuế GTGT đầu vào, mà phải hạch toán vào chi phí sản xuất, dẫn đến chi phí sản xuất tăng, giá thành sản phẩm tăng theo và lợi nhuận giảm, bất lợi trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu cùng loại, vì thực tế hầu hết các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước đều sử dụng nguyên vật liệu đầu vào với mức thuế suất thuế GTGT là 10%, chi phí này chiếm khoảng 50% giá vốn hàng bán, nên khi không được khấu trừ sẽ hạch toán vào chi phí và đẩy giá thành tăng là điều tất yếu.

Trên thực tế cũng cho thấy, chỉ những doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hoặc những đơn vị sản xuất NPK chuyên dùng nguyên liệu nhập khẩu mới được hưởng lợi do không chịu thuế GTGT. Như vậy, việc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm phân bón vô hình trung đã tạo ra bất lợi cho cả doanh nghiệp và nông dân, đặc biệt là nông dân phải mua với giá cao, không đúng như mong muốn của Quốc hội và Chính phủ. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nông dân, việc chuyển phân bón sang diện chịu thuế là cần thiết.

PV: Quy định phân bón không chịu thuế GTGT còn ảnh hưởng như thế nào đến ngành nông nghiệp Việt Nam, thưa ông?

PGS.TS Ngô Trí Long: Theo tôi, Quy định trên không những ảnh hưởng đến doanh nghiệp và nông dân mà còn ảnh hưởng tới môi trường và nông sản đầu ra của Việt Nam.

Bởi vì, nếu không có sự thay đổi về chính sách thuế, các doanh nghiệp trong nước còn phải đối mặt với nguy cơ thay đổi chiến lược kinh doanh sang lĩnh vực khác, nhường thị phần lại cho các sản phẩm phân bón ngoại nhập giá rẻ, kém chất lượng. Đây chính là nguy cơ lớn nhất cho ngành nông nghiệp và xuất khẩu nông sản Việt Nam.

Khi không được khấu trừ thuế GTGT thì tự nhiên phân bón nội địa “lép vế” với sản phẩm nhập khẩu. Bởi thực tế cho thấy, Luật 71/2014/QH13 còn tạo điều kiện cho phân bón nhập khẩu tràn vào Việt Nam một cách đột biến do giá thành cạnh tranh hơn so với phân bón trong nước vì chính sách thuế GTGT.

Bên cạnh đó, với việc hưởng lợi từ việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu ở Việt Nam theo cam kết của các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), doanh nghiệp nước ngoài càng có điều kiện hạ giá bán phân bón mạnh để cạnh tranh với phân bón nội địa. Thực tế là các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong khu vực, kể cả các doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu, đều được hậu thuẫn để chen chân vào thị trường Việt Nam. Điều này, không những làm cho phân bón nội địa thụt lùi mà sản phẩm nông nghiệp và môi trường cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bởi lẽ các loại sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ lạc hậu giá rẻ chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới môi trường và nông sản đầu ra và đây chính là nguy cơ rất lớn cho ngành nông nghiệp Việt Nam.

Về lâu dài, sự lệ thuộc vào phân bón nhập khẩu không thể đảm bảo phát triển nền nông nghiệp bền vững, gây ảnh hưởng đến mối quan hệ công nghiệp - nông nghiệp - nông dân và nông thôn, ảnh hưởng đến an ninh lương thực của nước nhà.

Chính vì vậy, cần thiết phải đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, sòng phẳng giữa các nhà sản xuất trong nước với phân bón nhập khẩu. Từ đó, mang lại lợi ích thiết thực cho ngành nông nghiệp, cho người nông dân.

Sự thay đổi này còn là yếu tố tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển các sản phẩm có chất lượng tốt, tính năng đặc thù dựa trên việc sử dụng công nghệ cao, tạo đòn bẩy cho sự tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung.


Cần phải đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế GTGT (Ảnh minh họa)

PV: Vậy theo ông, cần phải sửa Luật thuế 71 đối với lĩnh vực sản xuất và kinh doanh phân bón như thế nào mới hợp lý?

PGS.TS Ngô Trí Long: Thời gian qua, tôi cũng đã dự nhiều hội thảo, diễn đàn được tổ chức nhằm tìm ra mức thuế suất hợp lý cho các doanh nghiệp sản xuất phân bón nhằm tiết kiệm được chi phí sản xuất và từ đó đưa ra sản phẩm có giá thành cạnh tranh, thậm chí rẻ hơn khi không đánh thuế.

Tại các cuộc hội thảo trước đó, có nhiều mức thuế suất 0%, 5%, 7% được đưa ra thảo luận, song theo tôi, với mức 5% là phù hợp nhất, bởi các doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ có khoản chênh lệch giảm trừ ở GTGT đầu vào ở mức 7-8%, chi phí sản xuất phân bón sẽ giảm từ 2-3%, từ đó có cơ sở giá bán thấp hơn, nông dân sẽ được hưởng lợi.

Ngoài ra, các sản phẩm phân bón nhập khẩu cũng phải tính thuế GTGT 5%, khiến giá bán cao lên, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, trong khi ngân sách Nhà nước cũng có lợi nhờ thu được 5% của các sản phẩm nhập khẩu.

Còn nếu áp dụng mức 0%, các sản phẩm phân bón nước ngoài lại không phải đóng thuế, làm giảm tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước. Trong khi ở mức từ 7-10% thì sẽ không thể hiện được ưu đãi của Nhà nước với ngành này.

Nếu chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng chịu thuế GTGT với mức thuế suất 5%, thì nhìn một cách tổng thể đối với lợi ích xã hội, góp phần tăng ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thu thuế khác như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân của người lao động đang làm việc trong ngành phân bón...

PV: Với những bất cập nêu trên, theo ông trong thời gian tới cần phải tháo gỡ bài toán này như thế nào?

PGS.TS Ngô Trí Long: Theo tôi, Quốc hội, Chính phủ sớm xem xét, sửa đổi quy định, chuyển mặt hàng phân bón từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng chịu thuế GTGT với mức thuế suất 5% .

Việc ban hành quy định này, sẽ tháo gỡ được những bất cập, khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ngành phân bón. Bên cạnh đó, thông qua áp dụng mức thuế GTGT sẽ giúp đơn vị trong ngành nâng cao nội lực, chia sẻ với người tiêu dùng và giảm giá bán thông qua hạ giá thành sản phẩm. Điều này cũng sẽ giúp cho đông đảo nông dân tiết kiệm được chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất, canh tác. Và đặc biệt, quan trọng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào các dự án sản xuất phân bón chất lượng cao, phân bón thế hệ mới.

PV: Xin cảm ơn ông!

Kỳ I: Bất cập của Luật thuế 71

Kỳ II: Nông dân “điêu đứng” vì Luật thuế 71

Kỳ III: Vấn nạn phân bón giả

Kỳ IV: Doanh nghiệp phân bón 'than khó' vì bất cập thuế

Mạnh Tưởng (thực hiện)


Bình luận
Họ tên
Email
Mã xác nhận
 
 

Liên kết
Fanpage

​​​​​​​